Showing posts with label Phật pháp. Show all posts
Showing posts with label Phật pháp. Show all posts

Sunday, May 19, 2019

THẤU HIỂU NHÂN QUẢ, THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI

Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề. Nếu để cho những phương diện tiêu cực của cuộc sống bao trùm và cuốn  mọi sinh hoạt của mình vào trong, cả thân và tâm của bạn trở nên bệnh hoạn. Khi ấy, bạn như đang mang một căn bệnh truyền nhiễm, hễ giao tiếp với người, nói năng, hành động, tác ý nghĩ đến ai, là bạn đang phóng thích những tâm lý tiêu cực này đến người khác, như đang lây lan vi rút bệnh truyền nhiễm cho người mà bạn đang giao tiếp vậy. Do đó, để không làm khổ mình, khổ người, bạn cần phải chăm sóc, hàm dưỡng tâm, trí và thân của mình. Một cách hiệu quả bạn có thể làm để vơi nhẹ những tâm lý tiêu cực đang đè nặng lên vai mình là nhận thức rõ được hậu quả do những hành động của mình gây ra.
Đặc biệt hơn, nếu bạn có thể thấu hiểu và từ đó thực hành luật nhân-quả của nghiệp, thuận theo đó, định luật này dẫn dắt để bạn có một cuộc sống bình an. Để có thể làm được như vậy, bạn cần thấu hiểu 10 luật căn bản của nhân quả như sau.

Wednesday, March 27, 2019

SỐNG TỈNH THỨC


Tỉnh thức là gì?

Cuộc sống vốn luôn vận hành, chúng ta thường xuyên chịu nhiều áp lực nặng nề với bao lo toan không hồi kết của kiếp người. Chính vì vậy mà Bùi Giáng đã từng viết “Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc; Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay…”. Những tất bật hối hả với cơm, áo, gạo, tiền làm chúng ta mệt nhoài và căng thẳng, lắm lúc chao đảo đến mất thăng bằng. Tâm trí luôn mệt mỏi vì hoạt động hết “công suất”. Lúc thì một ý tưởng tiếc nuối những kỷ niệm đẹp một thời trong dĩ vãng khởi lên, hoặc một niệm ân hận day dứt với những lỗi lầm không đáng có trong quá khứ gợi về, khi thì những lo nghĩ, toan tính, dự định cho những điều không có gì chắc chắn ở tương lai lại lảng vảng trong đầu. Ít khi chúng ta biết trân quý và sống với hiện tại, để có thể đem tâm về chung sống với thân. Đây là một nghịch lý mà phần lớn chúng ta dễ mắc phải! Ta muốn hạnh phúc và hạnh phúc ấy chỉ có mặt trong hiện tại, sao ta lại bỏ hiện tại đi tìm hạnh phúc hư ảo ở những vọng tưởng xa xôi? Để đời sống mình có thêm nhiều ý nghĩa, chúng ta cần sống và thể nghiệm từng phút giây trong hiện tại nhiệm mầu với chánh niệm tỉnh thức.

Monday, January 21, 2019

QUAN HỆ THẦY TRÒ TRONG THỜI HIỆN ĐẠI (kỳ 3-hết)

QUAN HỆ THẦY TRÒ TRONG THỜI HIỆN ĐẠI (kỳ 1)
QUAN HỆ THẦY TRÒ TRONG THỜI HIỆN ĐẠI (kỳ 2)

5. Vài điều cần nhìn lại

Quan hệ thầy trò trong Phật giáo không đơn thuần là mối quan hệ trực tiếp giữa hai con người, hoặc hai thế hệ kế tiếp mà là sự trao truyền kiến thức, kinh nghiệm và cảm hứng tu tập thông qua một chuỗi tiếp nối dài lâu của nhiều thế hệ được kết tụ vào trong người thầy để rồi truyền trao cho người đệ tử. Thông qua quan hệ thầy-trò, giá trị và hiệu quả giáo dục thiền môn – một mô hình giáo dục căn bản và truyền thống nhất của đạo Phật được thể hiện. Trước sự thay đổi của môi trường xã hội, mối quan hệ thầy-trò theo đó cũng có nhiều thay đổi như một hệ quả tất yếu. Để có thể duy trì và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong mối quan hệ này, cả thầy lẫn đệ tử cần có sự thay đổi để thích nghi với nhu cầu thời đại.

Saturday, January 12, 2019

QUAN HỆ THẦY TRÒ TRONG THỜI HIỆN ĐẠI (kỳ 2)

QUAN HỆ THẦY TRÒ TRONG THỜI HIỆN ĐẠI (kỳ 1)

4. Quan hệ thầy-trò: những thay đổi trong thời đại ngày nay

a. Đệ tử có ít thời gian gần gũi thầy

Hầu hết nội dung học tập và thực hành căn bản cần thiết cho một người đệ tử mới vào đạo được quy định rất cụ thể và chi tiết trong luật. Do đó, theo cuốn Giới sa-di và sa-di-ni (HT. Trí Quang dịch giải), đức Phật quy định, người xuất gia 5 hạ về trước phải chuyên học và tinh tường về giới luật, 5 hạ về sau mới học hỏi giáo lý, tham cứu thiền học. Điều này từ xưa đã được áp dụng có hiệu quả ở hầu hết các chùa trên con đường giáo dục trọn đời dành cho một vị xuất gia. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, vấn đề này trở thành một thách thức lớn cho cả thầy và trò. Từ khi các trường Phật học được thành lập đến cấp thấp nhất là trường sơ cấp ở các quận, huyện thì người mới xuất gia chưa được bao lâu đều được đưa vào học trường sơ cấp. Đây là mô hình học đường hóa lối giáo dục gia giáo ngày trước, nên đối tượng chủ yếu là người mới xuất gia. Một khi vào môi trường học đường chính quy, thời gian học suốt tuần như học sinh phổ thông, nên thời gian đệ tử gần gũi thầy bị giảm đi đáng kể. Từ đó, tình thầy trò trở nên ít gắn kết, thầy cũng không sát sao đệ tử để kịp thời chỉ dạy, uốn nắn vốn rất cần thiết ở giai đoạn chập chững vào đạo này. Thêm vào đó, chương trình học gồm có nhiều môn, và Luật chỉ là một môn trong số ấy. Do đó, không có đủ thời gian để người mới vào đạo chuyên học và tinh tường về giới luật như Luật định. Giáo dục học đường dành cho người mới vào đạo là chủ trương của giáo hội và là xu hướng chung của thời đại, một người thầy không thể tách mình đứng ra ngoài guồng quay chung của thời đại, nên dù muốn dù không, vẫn phải cho đệ tử vào trường, dù thời gian vào chùa còn quá ngắn.

Wednesday, January 2, 2019

QUAN HỆ THẦY TRÒ TRONG THỜI HIỆN ĐẠI (kỳ 1)


1. Mối quan hệ thầy-trò trong đạo

Trong xã hội truyền thống Việt Nam, mối quan hệ thầy-trò vô cùng cao quý và thiêng liêng. Trong Phật giáo, mối quan hệ này càng có ý nghĩa nhiều hơn khi người thầy đóng vai trò kép để kiêm nhiệm luôn vai trò cha mẹ đối với đệ tử. Do đó, bên cạnh việc truyền trao kiến thức, người thầy còn có trách nhiệm nuôi dạy đệ tử vốn còn nặng nề hơn cả cha mẹ nuôi dạy con. Hai nhiệm vụ lớn lao và thiêng liêng này hòa quyện làm một nên mô hình giáo dục thiền môn có những nét đặc trưng riêng không giống môi trường học đường. Một số phương diện chính yếu mà người thầy cần làm đối với đệ tử là truyền trao kiến thức, hướng dẫn phương pháp tu học, dạy kỹ năng sống, định hướng nhận thức và thái độ sống, truyền cảm hứng để tự học và tự giác trong tu tập.

Monday, May 28, 2018

MỪNG PHẬT RA ĐỜI


Người bình thường chỉ tổ chức sinh nhật khi còn sống, và thường chủ nhân phải mời, nhắc thì người khác mới nhớ đến ngày sinh của mình. Rồi sau đó, chỉ rất ít người thân trong gia đình còn nhớ đến ngày sinh của người đã mất và việc này cũng bị bụi thời gian phủ mờ để rồi ngày sinh của người đã mất dần trở thành dĩ vãng. Chỉ có những bậc vĩ nhân, sau khi không còn trên cõi đời, vẫn được nhiều người nhớ đến và kỷ niệm ngày sinh, bởi lẽ họ chưa từng chết, bởi lẽ họ vẫn còn truyền cảm hứng cho đời, bởi lẽ mọi người vẫn đang hưởng được nhiều lợi ích từ vị ấy.

Đức Phật là một bậc vĩ nhân của những bậc vĩ nhân, và Ngài vẫn đang sống giữa lòng nhân loại, dù Ngài đã cách xa chúng ta hơn 26 thế kỷ. Liên Hiệp Quốc đã quy định, ngày sinh của Ngài là ngày hội lớn của nhân loại, bởi bao người đang an vui và hạnh phúc nhờ sự có mặt của Ngài trên cuộc đời này.
Vui thay Phật ra đời!

Wednesday, April 4, 2018

NGÀY VÍA QUAN ÂM


Lễ lạy bồ-tát Quan Âm thật sự có ý nghĩa và lợi ích khi bạn đem tâm thành hướng về Ngài, một bậc bi-trí viên dung, coi Ngài là tấm gương sáng để soi lại chính bản thân mình, nỗ lực phát huy hai đức tính bi và trí vốn có nơi mỗi người chúng ta.
Hôm nay 19 tháng 2 ân lịch là ngày lễ vía Quan Âm.
Hình tượng bồ-tát Quan Âm trở thành hình ảnh vô cùng quen thuộc với tất cả mọi người. Tôi vẫn thường thấy một số Phật tử về chùa, ra quỳ trước tượng đài Quan Âm, lâm râm khấn vái một hồi lâu và lạy có vẻ vô cùng thành tâm. Xong họ lại sát tượng, đưa hai tay chạm vào đài sen, nhón chạm đôi bàn chân trên tượng đài rồi vuốt lên tóc, miệng không ngớt thì thầm cầu nguyện. Ở nhiều chùa, nơi thân tượng Quan Âm, chỗ vừa tầm tay với, là một đoạn mòn bóng chỉ vì có quá nhiều người thường vuốt tượng rồi vuốt lên đầu như thể làm vậy sự cầu xin của mình thành tựu như ý. Người ta tha thiết cầu nguyện  như thể xin sự ban phát mọi điều tốt đẹp từ vị bồ-tát này.
Đây không phải là trường hợp hiếm gặp, mà là rất phổ biến ở mọi vùng miền trên khắp nước ta. Theo tín ngưỡng văn hóa người Việt, mỗi năm có ba ngày lễ vía Quan Âm: 19/2, 19/6 và 19/9 âm lịch. Trong những dịp này, như một thói quen tâm linh, nhiều người quy tụ về chùa, hướng về bồ-tát Quan Âm, nguyện cầu Ngài từ bi hộ độ cho bản thân và gia đình được vạn sự an lành.
Tín ngưỡng Quan Âm trở nên phổ biến trong quần chúng, không chỉ đối với người theo đạo Phật mà với cả người không theo tôn giáo nào (theo đạo Ông Bà) bởi lẽ, hầu hết mọi người tin rằng có một vị bồ-tát có lòng từ vô lượng, trí tuệ siêu tuyệt, có khả năng nhìn thấu hiểu đúng, lắng nghe tiếng khổ của chúng sanh trong ba cõi mà ứng hiện cứu giúp. Vì lẽ đó mà họ ra sức cầu nguyện, tha thiết van xin để được cứu khổ, ban vui và đón nhận những gì may mắn nhất về phần mình.
Khổ ở khắp nơi: ngay cả trong tự thân của mỗi người, trong mỗi một tập thể nhỏ nhất là gia đình, ngay thềm cửa nhà mình cho tới nơi làm việc, chợ búa, hàng quán… đâu đâu cũng có nỗi khổ niềm đau có mặt. Do vậy, nếu có một vị bồ-tát có thể tiếp cứu vô số khổ đau cho chúng sanh ba cõi, thì không gì tuyệt vời hơn. Thế nhưng,  nếu hiểu rằng cứ thụ động ngồi đó chờ cứu giúp thì bạn đã sai rồi. Tin rằng có một đấng toàn năng có thể hô biến với đau khổ là điều hão huyền, bởi lẽ vạn pháp vận hành không ngoài sự chi phối của luật nhân-quả.
Hoàn toàn đặt niềm tin vào tha nhân là “phiên bản lỗi” về niềm tin trong Phật giáo. Đạo Phật nguyên chất không dạy con người nuôi dưỡng niềm tin mù quáng và thiếu cơ sở như vậy. Các chùa thường tổ chức cúng vía là dùng phương tiện để tiếp cận với nhiều thành phần trong xã hội. Đây là cách làm để tạo cơ hội cho bà con Phật tử có dịp về lễ Phật, tỏ lòng tôn kính đối với chư Phật và bồ-tát để nương vào các hạnh lành của chư Phật và bồ-tát, hâm nóng tâm nguyện lành, làm mới thân tâm… Tuy nhiên, nhiều người Phật tử bỏ qua tất cả những giá trị này mà thiên về lễ lạy, cúng bái, cầu nguyện chư Phật và bồ-tát với những gì mình mong ước, là không phù hợp với chủ trương của một đạo Phật – đạo của trí tuệ và từ bi.
Lễ lạy bồ-tát Quan Âm thật sự có ý nghĩa và lợi ích khi bạn đem tâm thành hướng về Ngài, một bậc bi-trí viên dung, coi Ngài là tấm gương sáng để soi lại chính bản thân mình, nỗ lực phát huy hai đức tính bi và trí vốn có nơi mỗi người chúng ta. Tin vào bồ-tát Quan Âm là một lòng tin tưởng vào những gì đã Ngài thành tựu, bạn cũng có thể thành tựu, bằng sự nỗ lực không mệt mỏi của mình, chứ không phải tin rằng Ngài có thể làm thay phận việc của bạn để bạn rảnh tay ngồi đó đợi hạnh phúc chạy về.
Niềm tin là mẹ của các công đức, là điểm xuất phát cho mọi hành trình và là nhân tố ban đầu quyết định mọi thành công. Tuy nhiên, chỉ có niềm tin chân chánh mới có thể đem lại những kết quả ấy.
Niềm tin chân chánh là phải tin vào chính mình. Niềm tin đúng sẽ cho ta động lực, năng lượng và sức mạnh để làm việc mình muốn. Ý tưởng tự tin vào chính mình là điều đức Phật nhấn mạnh ngay cả lúc Ngài sắp rời xa chúng đệ tử. 
Trước sau như một, đức Phật khẳng định vai trò chủ đạo của tự thân để những người bình thường như bạn và tôi, đừng có ảo tưởng mà giao hết vận mệnh của mình vào các thế lực bên ngoài. Chỉ có bản thân bạn mới có vai trò quyết định mức độ thành tựu những gì mình mong muốn. Tất cả những gì ngoài thân đều có giá trị trợ giúp và bạn chỉ có thể nhận được sự trợ giúp ấy khi đã nỗ lực tự thân vận động không ngừng nghỉ.
Thay vì cầu, nguyện, mong, chờ thì hãy tự tin bắt đầu làm phần việc của mình đi thôi!

Wednesday, March 7, 2018

THẤU CẢM

1.    THẤU CẢM LÀ GÌ?

Thấu cảm không chỉ là thông cảm hoặc đồng cảm, mặc dù có sự liên quan giữa các trạng thái tâm lý này. Tiếng Việt ta có nhiều từ “thấu” rất hay như thấu hiểu, thấu đáo, đau hay lạnh thấu xương thấu tủy. Thấu có nghĩa là xuyên suốt, toàn diện, thấm nhuần, hòa lẫn, hòa nhập, giao thoa trọn vẹn. Vậy thấu cảm là sau khi cảm nhận, hiểu biết thấu đáo, hiểu tận ngọn nguồn, có sự thông cảm và đồng cảm khi chủ thể thâm nhập sâu hơn và hòa nhập vào tâm người đối diện như thể làm một.

Saturday, February 10, 2018

TẾT – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN TU TẬP

Tết Nguyên đán là thời điểm chuyển giao của năm cũ sau khi hoàn thành một chu kỳ thời gian bốn mùa để bước sang năm mới. Đây là ngày hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất trên khắp đất nước. Với tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi giai tầng xã hội, từ thành thị đến thôn quê, từ miền Bắc đến miền Nam đất Việt, Tết là thời điểm vô cùng đặc biệt, quan trọng và thiêng liêng. Đây là lễ hội thể hiện nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, thể hiện sự giao hoà giữa con người và con người cũng như giữa con người và thiên nhiên. Bên cạnh những giá trị nhân văn, đạo đức và thẩm mỹ trong lễ hội truyền thống này, dưới cái nhìn Phật pháp, Tết còn là cột mốc để nuôi dưỡng tâm linh trong pháp lành và điều này góp phần làm cho lễ hội truyền thống này càng thêm nhiều giá trị.

Wednesday, December 13, 2017

GIỚI THÂN HUỆ MẠNG THẦY CHO…

Trong nhà đạo, chúng ta thường dùng câu ‘Thầy là người cho chúng ta giới thân huệ mạng để tỏ lòng biết ơn của người đệ tử khi bày tỏ lòng mình đối với Thầy. Thế nhưng, đây không chỉ là những lời hoa mỹ được dùng trong các bài tác bạch, trong các sự kiện liên quan đến người Thầy của mình, mà hơn thế nữa, đây có phương châm sống, con đường sống và mục đích sống của mỗi một người đệ tử vậy.
“Giới thân” là dùng các nguyên tắc đạo đức để kết thành thân. Điều này có nghĩa là nhờ học hỏi Thầy qua gương sống động của bản thân Thầy (thân giáo), lời Thầy chỉ dạy (khẩu giáo) và tâm ý Thầy luôn mong mỏi người đệ tử thấm nhuần trong nếp sống đạo đức (ý giáo) mà người đệ tử ấy có giới tướng trang nghiêm, giới hạnh thanh tịnh.
“Huệ mạng” nghĩa là lấy trí tuệ làm đời sống của chính mình. Nói cách khác, mọi suy nghĩ, hành động và lời nói đều được vận hành dưới sự soi sáng của lý trí, của tuệ giác. Đó là nghệ thuật sống an lạc và hạnh phúc. Muốn làm được điều này, người đệ tử cần nghe nhiều, biết rộng, ý thức mạnh mẽ, huân tập dần dần để trí tuệ trở thành đời sống của chính mình. Tất cả những điều này có được là nhờ sự dạy dỗ, bảo ban, giám sát và hướng dẫn của Thầy vậy.
Một khi người đệ tử sống đúng theo tinh thần câu nói này có nghĩa là đã cảm nhận đầy đủ được ơn sâu nặng giáo dưỡng của Thầy, người đã nuôi chúng ta lớn lên bằng chất liệu của chánh pháp. Thầy là người cho đệ tử:
Mặc thì áo giới ấm êm,
Ăn thì sữa pháp, cơm thiền nuôi thân” (NT. Huỳnh Liên).
Mỗi ngày thân và tâm người đệ tử được ướp đẫm hương vị bình an của đời sống đạo đức, của thiện lành, của yêu thương để rồi nguồn tâm an tịnh, trí tuệ tỏa sáng cho đệ tử theo đó hành động, nói năng và suy nghĩ sáng suốt, đem lại lợi ích cho mình và cho người.

Một khi người đệ tử sống đúng theo tinh thần câu nói này có nghĩa là khẳng định rằng thân mình được kết tinh bằng giới và cuộc sống của mình là hiện thân của trí tuệ. Nói một cách khác, dưới sự dẫn dắt của thầy, người đệ tử luôn thể hiện đạo phong, oai nghi tế hạnh, cách ăn nói, hành xử và suy nghĩ hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc đạo đức và cách sống, và cách xử  lý mọi vấn đề của mình luôn hợp lý, khế hợp lời Phật dạy, sáng suốt, đem lại hiệu quả tích cực trong cuộc sống.
Một khi người đệ tử sống đúng theo tinh thần câu nói này có nghĩa là luôn đặt mình dưới sự dìu dắt, nâng đỡ, định hướng của Thầy, chúng ta đang trên con đường hình thành giới thân huệ mạng ấy, với một lòng tin tưởng tuyệt đối vào người thầy tâm linh của mình. Như đức Tổ sư Minh Đăng Quang viết trong bài Chơn Lý “Hột giống”, tâm đang được thuần thục trong pháp thiện được ví như hột đã tượng hình trong vỏ trái, nhưng hột đó còn non, còn mềm thì chúng ta phải nương vào thầy để tự nuôi dưỡng hột cho đến lúc già, chắc, không hư hoại với thời gian.
Một khi người đệ tử sống đúng theo tinh thần câu nói này có nghĩa là ý thức được vai trò kế thừa, nhiệm vụ lớn lao thầy trao lại cho mình là mỗi người tự làm ngôi chùa di động chuyên chở đầy giới và tuệ, để tự thân an lạc và hạnh phúc, đồng thời và góp phần đem lại bình an và hạnh phúc cho người . Người đệ tử như vậy đã thừa kế thầy mình đúng theo tinh thần đức Phật dạy rằng “là đệ tử chân chánh, hãy thừa tự giáo pháp, không thừa tự tài vật” (Trung bộ kinh, kinh số 3: Thừa tự pháp). Gia tài Thầy để lại không phải là ngôi chùa vật chất mà nhiều người mê mờ tham đắm tranh nhau để làm chủ, mà đó là ngôi chùa tâm linh được xây bằng giới, định và tuệ. Đây là điều mong mỏi nhất của một người thầy ở những người đệ tử mà thầy đã vắt tim vắt óc, đem hết sức lực, thời gian và năng lượng để nuôi dưỡng trong suốt cuộc đời mình vậy!
Thầy già như chuối chín cây… Thầy là ngọn đèn đã dần hao gầy sau một thời gian dài thắp sáng soi đường cho đệ tử. Để thầy được thanh thản, an ủi tuổi già phần nào, hãy ướp tẩm thân tâm mình trong từng giây từng phút với giới và tuệ cho dần viên mãn, trọn vẹn “giới thân, huệ mạng”. Đệ tử làm được điều này thì các bậc thầy yên tâm khi “tre già” thì đã có “măng mọc” và lớp măng này mạnh khỏe, đủ sức để thay tre!
Một đời sống chánh niệm tỉnh giác, thuần thục giới để xâu kết đạo đức thiện lành thành thân, định hướng cuộc sống và xử lý mọi tình huống bằng tuệ là món quà quý giá nhất của người đệ tử trân trọng dâng lên cúng dường người thầy đã trọn đời cống hiến cho đạo pháp và đào tạo nên những người đệ tử là chúng ta vậy!

Wednesday, November 29, 2017

HÃY THA THỨ…

Tha thứ: nói thì dễ, ai ở trong cuộc mới thấy làm được là cực khó!
Tha thứ cho một ai đó cũng có nghĩa là bạn không phải đưa vào tâm những hiềm hận vốn không ở trong tâm mình từ trước. Để các “tế bào lạ” như sân hận xâm nhập vào tâm thì chúng sẽ gây nên u độc cho tâm, khó mà chữa trị cho lành.
Tha thứ, nghĩa là bạn độ lượng, khoan dung với lỗi lầm của người khác. Sau khi bị người khác làm tổn thương, việc cần thiết là cấp cứu cầm máu, chăm sóc vết thương của chính mình, hơn là cứ để vết thương đau đớn không hề can thiệp đến, mà cứ dõi theo người đã từng làm mình tổn thương, xem họ làm gì, sống như thế nào, lại tiếp tục làm tổn thương người khác nữa ra sao… Đức Phật từng dạy, người bị một người khác dùng cung bắn bị thương. Việc cần kíp là nhanh chóng rút mũi tên ra khỏi và chữa trị vết thương của chính mình. Nếu cứ theo tìm hiểu về người bắn cung, về mũi tên mà không lo rút mũi tên ra và chữa trị vết thương thì đó là người không khôn ngoan (Tiểu kinh Malunkya, Trung bộ kinh số 63). Giải pháp thứ nhất là cách hành xử của người biết tha thứ. Sẽ là người thiếu khôn ngoan nếu bạn chọn cách hành xử thứ hai. Hãy dùng thuốc tha thứ để sát trùng vết thương, để hỗ trợ cho cơ thể tạo kháng thể làm lành vết thương và có thể tăng khả năng đề kháng đối với những vi khuẩn rập rình chờ xâm nhập.
Khi chưa hoặc không thể tha thứ, tâm bạn trĩu nặng như đeo đá! Bạn hận, bạn thù, bạn ghét người đã từng làm mình tổn thương, cũng có nghĩa bạn cứ phải mang theo bóng hình của người đó trong tâm. Thương ai thì mang bóng hình người đó trong mọi lúc mọi nơi đã đành, ghét ai thì cũng è cổ ra mà mang hình bóng người đó cả khi thức lẫn khi ngủ! Cái gì cũng mang vác như vậy, tâm rất nặng nề. Do đó, rất có thể người gây ra tổn thương cho bạn khó khó có thể tha thứ được, họ không xứng đáng để được tha thứ, thì bạn vẫn cứ phải tha thứ cho tâm mình khỏe nhẹ, thanh thản khi đặt gánh nặng hận thù, giận hờn, trách móc xuống!
Vì lợi ích của bản thân, vì sự công bằng cho chính mình, đừng để bản thân bạn chịu thiệt thòi một cách vô lý, thì hãy tha thứ! Tha thứ là món quà bạn tự trao cho bản thân mình và cho người vụng về đã làm tổn thương bạn. Khi tha thứ, giận hờn, đau đớn… rơi lại sau lưng, bạn sống trong hiện tại với tâm thảnh thơi, nhẹ nhàng.
Nếu bạn thấy những điều vừa chia sẻ là đúng và logic, thì mỗi khi bị tổn thương, bạn hãy dùng cách quán chiếu như trên để soi vào tâm mình, dùng lý trí và chánh niệm tác động vào nhận thức, thái độ sống để có thể mở rộng lòng ra mà tha thứ. Tâm có khả năng mở rộng và uyển chuyển để được an toàn và bảo vệ với những tác nhân không tốt bên ngoài, đức Phật gọi là tâm “nhu nhuyến, dễ sử dụng”. Ai có khả năng làm cho tâm mình thuần thục như vậy, sẽ làm chủ được tâm và điều khiển theo ý muốn của mình để chế tác hạnh phúc, an lạc nhiều hơn trong cuộc sống.
Vì sự thanh thản của tâm, hãy tha thứ!

Vì đó là chìa khóa để mở cửa cho đau khổ ra đi, hãy tha thứ!
Vì đó là nguồn lợi ích và an lạc cho chính mình, hãy tha thứ!
Vì đó là món quà tặng quý giá cho mình và cho người, hãy tha thứ!
Vì đó là nơi bạn dừng lại không tạo thêm oán cừu với người khác, hãy tha thứ!
Vì đó là nơi bạn biết dừng lại để quán chiếu và sám hối những lỗi lầm xưa, hãy tha thứ!
Vì đó là dịp để bạn lùi lại một tí mà nhìn dòng nhân quả đang vận hành, hãy tha thứ!
Vì đó là cơ hội để bạn mở rộng lòng yêu thương, hãy tha thứ!
Vì đó là việc làm được người thiện lành đã làm và thường tán thán, hãy tha thứ!

Friday, November 17, 2017

CÓ BIẾT MÌNH ĐANG THỞ?

Thở là một hoạt động quyết định sự sống của con người. Ta thở trọn đời, nhưng không mấy khi ta để tâm đến hơi thở. Chúng ta thở tự động, thở như một cái máy. Khi sức khỏe bình thường, hầu như chúng ta không ai đoái hoài gì đến nó. Đến lúc nghẹt mũi, ta mới biết hơi thở mình trở nên khó khăn, nặng nề. Lúc bệnh và mệt, chúng ta mới thấy hơi thở mình cạn, ngắn và hơi thở không tròn đầy… Khi ấy, bạn mới thấy sự quý giá của mỗi hơi thở ra vào.
Mạng người được tính bằng từng hơi thở. Thế nhưng, chính vì không quan tâm đến hơi thở, hay nói cách khác, coi thường hơi thở, chúng ta không dành cho nó một sự chú ý xứng đáng!
Hơi thở là sợi dây vô hình kết nối giữa thân và tâm. Hơi thở kết nối giữa sự sống và cái chết. Hơi thở kết nối giữa ý thức và tiềm thức (thuật từ Phật học là tàng thức hoặc A-lại-da thức). Hơi thở kết nối giữa tứ đại trong thân và tứ đại vũ trụ.
Hơi thở không phải là luồng hơi từ ngoài đi vào buồng phổi và đi ra, mà hơi thở là dòng năng lượng tỏa khắp toàn thân. Chỉ khi nào ý thức về hơi thở, chúng ta mới dần cảm nhận ra điều này.
Thiền hơi thở là tập trung, chú tâm để tập nhận biết sự có mặt cũng như tính chất của năng lượng hơi thở, từ thô đến tế cũng như tất cả những gì thuộc về hơi thở. Vì hơi thở là sự sống, hơi thở là thân-tâm, hơi thở là tất cả nên khi hiểu về hơi thở một cách trọn vẹn, là hiểu trọn vẹn sự sống và làm chủ được sự vận hành của tâm. Làm chủ được tâm là làm chủ được hạnh phúc đời mình!
Đức Phật là người thành công khi vận dụng thiền hơi thở trong quá trình thành tựu sự định tĩnh và tuệ giác cao tột và trọn vẹn. Thiền hơi thở là chủ đề được đức Phật xây dựng thành một phương pháp chủ đạo để chia sẻ cho những người tập sống tỉnh thức, đang đi trên con đường rèn tâm định tĩnh và khai nguồn tuệ giác.
Thiền thở không cần công cụ gì cả, vì hơi thở là vật thiết thân không thể rời của mỗi con người! Khi nào còn sống là còn mang theo hơi thở; khi nào còn mang theo hơi thở thì có thể tập nhận thức về sự có mặt của hơi thở.
Hơi thở là quà tặng của cuộc sống dành cho mỗi người.
Thở tự động như máy là chưa biết sử dụng món quà vô giá này!
Thở có ý thức và bắt đầu đưa món quà quý này vào sử dụng để đem lại bình an và hạnh phúc cho mình rồi đó!
Có biết mình đang thở?

x

Saturday, October 7, 2017

THẬT SỰ THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM (Phần 2 và Hết)

ANDREW OLENDZKI

Liên Trí dịch

THẬT SỰ  phần THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM (Phần 1)
Phần này hay quá! Vì muốn chia sẻ phần chánh niệmnày mà bỏ công dịch nguyên bài cho ý trọn vẹn, dễ hiểu hơn!

Chánh niệm và những tâm sở đồng hành

Theo A-tỳ-đàm, chánh niệm (sati, 29) là một tâm sở thiện, chỉ sinh khởi trong một số tình huống đặc biệt. Ngày nay, trong hầu hết các cách  nói thông thường, chúng ta hay dùng thuật ngữ này để chỉ bất cứ các yếu tố nào đã nêu trên hoặc sự kết hợp giữa các yếu tố này. Trong các bài kinh nguyên thủy, đặc biệt là kinh Niệm xứ (Trung bộ kinh số 10), hành giả đi đến một chỗ vắng, ngồi kiết già, giữ lưng thẳng, đặt chánh niệm vào sự hiện diện trước mặt. Luận A-tỳ-đàm đưa ra một định nghĩa về chánh niệm có bốn phương diện, theo cách giải thích trong các bản sớ giải A-tỳ-đàm: (1) thể của nó là giữ tâm không dao động, hoặc giữ tâm không trượt khỏi đối tượng đang trú tâm; (2) dụng của nó là làm vắng bặt sự xáo trộn, ghi nhớ không quên sót (từ “niệm” xuất phát từ chữ “ký ức”); (3) tướng của nó là trạng thái đối đầu một lãnh vực cảm nhận bằng giác quan một cách khách quan; và (4) nhân trực tiếp là cảm thọ mạnh mẽ hay bốn cơ sở của chánh niệm (thân, thọ, tâm và pháp). Tất cả những định nghĩa này đưa ra sự hiện diện rõ ràng hơn của tâm, nhấn mạnh sự chủ tâm vào đối tượng kinh nghiệm trong giây phút hiện tại, một tính chất đặc biệt của tác ý. Chúng ta có thể học hỏi được nhiều điều hơn nữa qua việc quan sát nhóm mà nó đi cùng.

Monday, October 2, 2017

THẬT SỰ THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM (phần 1)

Andrew Olendzki
Liên Trí dịch
Khi thuật ngữ “chánh niệm” ngày càng được sử dụng rộng rãi, thường có sự nhầm lẫn, cho rằng chánh niệm là “có mặt trong giây phút hiện tại”. Andrew Olendzki nghiên cứu luận tạng A-tỳ-đàm đã khám phá ra thật sự thực hành chánh niệm là làm gì, và nó diễn ra thế nào. Bài viết này rất thú vị khi Ông cho rằng, không thể có “chánh niệm” về cơn giận nếu chúng ta chỉ ý thức, biết rõ cơn giận đang có mặt, không can thiệp gì, cho phép nó có mặt, không phê phán, không đè nén, không để nó sai sử... Cái đó không thể gọi là “chánh niệm”! Nói cách khác, giận và chánh niệm không cùng hiện hành trong một sát na tâm (được nói đến ở phần cuối bài này rất thú vị!).
Tôi rất tâm đắc ý này, đọc bài viết thấy hay quá, nên dành thời gian dịch để chia sẻ với người có duyên. 
Tiếng Anh được sử dụng rất phong phú trong nhiều lãnh vực, đặc biệt là khi giải thích những đặc tính của thế giới vật chất, thế nhưng khi cần diễn đạt những sắc thái đặc thù thuộc sự trải nghiệm nội tâm, ngôn ngữ này trở nên khá vụng về. Đây là một trong những lý do gây nên sự bối rối, khó hiểu khi bàn luận về tâm, thiền định và tâm lý nói chung.

Thursday, September 28, 2017

NGƯỜI CỐ CHẤP

Một cách ngẫu nhiên đến thú vị trong cuộc sống là có khi chúng ta đang đi tìm cái này, mà lại gặp một thứ khác! Có khi dự định ra phố mua một món đồ này, tình cờ thấy một món đồ khác vô cùng ưng ý, mà lại cần nữa, ta mua ngay! Tôi cũng đang có trải nghiệm vui vui như thế, khi đi lục tìm trong các bài kinh vài dẫn chứng về một đề tài đang viết lở dở thì tình cờ đọc được mấy câu kinh đức Phật dạy về tánh cố chấp, thấy khá lý thú và cũng “hợp thuốc” với căn bệnh của nhiều người (trong đó có mình)! Thế là vẫn “ngâm” tiếp đề tài đang viết, chuyển sang viết về người có tánh cố chấp. Bài viết nhỏ này được hình thành một cách tình cờ như vậy!

Sunday, September 17, 2017

ĐỂ SỐNG VỮNG CHÃI TRONG ĐẠO

Một người khi xuất gia là đã cân nhắc rất kỹ để có quyết định quan trọng của cuộc đời mình trước hai ngả rẽ lớn: sống đời thế tục hay chọn con đường xuất gia. Khi “tóc đã cạo, tơ lòng đoạn phủi” (NT. Huỳnh Liên), người xuất gia nào cũng cảm nhận nếp sống mới là cao thượng tuyệt vời, từ đó hành giả sẽ sử dụng quỹ thời gian của mình cho mục đích học đạo, tu đạo và làm lợi ích cho nhiều người. Để tâm nguyện này được thực hiện, để sự nỗ lực gia công hành trì có hiệu quả và nhất là để có đủ nhiệt huyết đi trọn con đường mình đã chọn, chúng ta cần trang bị cho mình một số kỹ năng căn bản sau:

Friday, September 1, 2017

ĐÓA HỒNG VU LAN

Diễm phúc thay cho những ai còn Cha còn Mẹ trên đời, nghĩa là ta vẫn còn cả một bầu trời bình yên, xin hãy trân quý và tận hưởng nguồn hạnh phúc này. Chúng ta vui sướng cài lên ngực áo một đóa hồng đỏ thắm.
Hoa hồng đỏ cho những ai còn Mẹ ở trong đời...
Màu hoa thắm biểu trưng tình Cha Mẹ, là kết tinh của suối nguồn yêu thương vô tận, gói trọn bao tháng ngày vất vả gian lao, lo lắng tảo tần suốt một đời mà hai đấng sanh thành đã chắt chiu nuôi ta khôn lớn. Màu hoa thắm nhắc nhở chúng ta, dù ở nơi đâu vẫn luôn hướng về cội, về nguồn, hoài niệm công ơn sinh thành dưỡng dục không gì so sánh được của Cha và Mẹ, người đã hy sinh cả một đời cho ta và vì ta tất cả.  Xin hãy nâng niu gìn giữ màu hoa thắm, đừng để hoa sớm phai nhạt với thời gian. Màu hoa sẽ thắm mãi nếu chúng ta biết bổn phận làm con mà phụng dưỡng đáp đền công đức của hai đấng sanh thành. Hãy thương yêu lo lắng cho Mẹ Cha bằng cả tấm lòng của người con hiếu.

Nếu Mẹ còn mà Cha khuất bóng, hãy chọn cho mình đóa hoa hồng nhạt
Nếu bạn còn Mẹ ở trên đời mà chẳng may Cha không còn nữa, màu hoa hồng có phần nhạt phai vì một nửa suối nguồn thương yêu nay đã vắng xa. Xin bạn hãy chọn cho mình đóa hoa màu hồng. Màu hồng của đóa hoa gợi cho ta niềm an ủi, vỗ về, dù Cha đã xa ta nhưng đời ta vẫn còn được ngọn lửa tình thương của Mẹ sưởi ấm. Hãy dồn tất cả tình thương yêu vào Mẹ để bù đắp những thiệt thòi, vất vả của Người khi Mẹ một mình chống chỏi với bao phong ba bão táp cuộc đời để nuôi ta trưởng thành đến ngày hôm nay. Màu hồng nhớ, màu hồng thương, màu hồng đượm vấn vương. Màu hồng nhắc ta sống xứng đáng với người Cha đã khuất, để ta có thể ngẩng cao đầu sống bản lĩnh trên đôi chân của mình.
Hoa hồng trắng cho những người con mất Mẹ...
Nếu những ai bất hạnh khi không còn Mẹ trên đời, sự mất mát to lớn này không gì có thể thay thế được, xin chia sẻ cùng bạn. Người con mất Mẹ lặng lẽ cài lên ngực áo đóa hoa buồn trinh trắng. Xin hãy đem trọn tâm nguyện hướng về Mẹ mình bằng tất cả những gì thiêng liêng và cao cả nhất của một người con. Màu trắng buồn nhưng tinh khôi, thanh khiết. Màu trắng nhắc ta sống thanh cao, trong trắng, trung thực, vững chãi từng bước chân trên đường đời dù không còn Mẹ ở bên để bảo bọc, chở che, nhắc khuyên, dạy dỗ. Màu trắng nhắc ta luôn hướng về Mẹ với những gì linh thiêng, thuần khiết nhất. Màu trắng ấy định hướng đi cho cuộc đời để ta không hổ thẹn với Mẹ khi dòng sữa Người nuôi hình hài ta trưởng đại, dòng máu Người nhuận chảy khắp châu thân.
Hoa hồng trắng hay đỏ đều ý nghĩa
Chỉ đượm nồng hương sắc thể từ bi
Ai còn Mẹ hay Mẹ đã mất đi
Xin giữ mãi, Mẹ ơi xin nhớ mãi…

Wednesday, August 2, 2017

CHẾ NGỰ HÔN TRẦM VÀ NGỦ GỤC

Hôn trầm là trạng thái nặng nề của cơ thể và mờ tối của tâm thức, kéo ta vào tâm trạng uể oải, lừ đừ và chán nản. Đây là một tâm lý tiêu cực, trầm nịch làm chướng ngại sự tu tập thiền định cũng như trong sinh hoạt đời thường. Khi người đang ở trong trạng thái dã dượi, bần thần, ngầy ngật thì tâm trí trở nên lờ đờ, thiếu sinh khí, nặng nề với sức ỳ tâm lý không hề nhỏ. Do đó, chúng ta có thể hiểu người bị hôn trầm chế ngự như thể đang bị giam vào một phòng tối, chật chội, không thể di chuyển tự do, trong khi bên ngoài là trời đầy nắng sáng. Trong khi hành thiền, nếu bị hôn trầm, hành giả có cảm giác lười biếng, niệm rời rạc, yếu ớt và từ đó có khoảng trống cho sự ngủ gục xen vào trong lúc thực hành thiền mà hành giả phải tìm nhiều cách “vật lộn” với cơn buồn ngủ! Do vậy, chế ngự và chuyển hóa những trạng thái u ám, nặng nề của hôn trầm là việc cần thiết đối với mỗi con người chúng ta, nhất là người đang nỗ lực ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống thực tế của mình để có an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.

Tuesday, July 25, 2017

BIỂU TƯỢNG HOA SEN VÀ NGỌN ĐÈN TRONG PHẬT GIÁO KHẤT SĨ – SỰ GẶP GỠ GIỮA VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁO (tt và hết)

Liên Trí
(Bài trình bày tại Hội thảo “Vùng ASEAN và Nam Á: Nơi giao hòa của văn hóa và tôn giáo ở Đông Nam” Á- 9-11/7/2017)

1. Sự hòa quyện giữa hoa sen và ngọn đèn trong Phật giáo

Ngày nay, biểu tượng hoa sen và ánh sáng quyện vào nhau trong văn hóa Phật giáo. Trong các buổi lễ, thả hoa đăng và đốt nến cầu nguyện trở thành một trong những cách thể hiện tâm nguyện yêu chuộng hòa bình, phồn vinh, hạnh phúc của người con Phật tại các nước Châu Á là điều thường thấy.
Ở Hàn Quốc, vào ngày Phật đản, hàng vạn người Phật tử nô nức ra đường tham gia lễ hội “Yeon Deung Hoe” (Lễ rước lồng đèn hoa sen) với ý niệm khơi dậy tinh thần trí tuệ và từ bi của đạo Phật. Người người nô nức tham gia rước đèn với niềm tin rằng, ánh sáng từ đèn hoa sen tượng trưng cho ánh sáng giác ngộ của đức Phật soi rọi vào cõi ô trược của thế gian này.