Wednesday, December 31, 2008

Chúc mừng năm mới!






Saturday, December 27, 2008

Giống nhau thôi...

Tại "Hội thảo Văn học với xu thế hội nhập, các tỉnh Bắc miền Trung" , ông Hoàng Vũ Thuật phát biểu trong bài Tham luận của ông rằng:
[...]
"Tôi e rằng cứ chăm chăm vào cái lớn lao, say mê với viễn cảnh bao la trời đất dễ dàng không nhìn thấy nơi mình đang đứng, bóng dáng cụ thể của chính mình. Không thấy mình, hiểu được mình thì làm sao hiểu hết cái quanh mình?

Xưa nay con người thích nói cái đẹp, cái cao vời, mà không quen đề cập đến sự xấu xa dơ bẩn của bản thân. Năm 1969 Việt Phương đã có câu thơ cảnh tỉnh ''Tất cả những gì xấu xa của tao là thuộc về mày / Tất cả những gì tốt đẹp của mày là thuộc về tao". Thói hợm hĩnh tự đề cao là cố tật, căn bệnh của những dân tộc nhược tiểu."
[...]
Tôi xin mấy câu này về đây để làm bài học cho mình (dù ông nói ở đây là về khuynh hướng sáng tác văn học và tâm lý cộng đồng của những dân tộc nhược tiểu, nhưng tâm lý con người có nhiều điểm tương đồng, không ngoại trừ tâm lý này! Cũng giống nhau thôi!)

Friday, December 26, 2008

Sai!

Monday, December 22, 2008

Thái độ

Chúng ta ai cũng hiểu rằng thái độ tác động rất lớn đến suy nghĩ, hành vi của mình trong cuộc sống. Tôi cũng thường tâm niệm như thế để kịp thời điều chỉnh thái độ mình đối với những gì xảy ra chung quanh, nhất là khi những yếu tố bên ngoài ấy không xứng ý với mình. Tôi để ở sidebar trang blog này câu nói tôi rất tâm đắc về ‘thái độ’ của Swindoll để nhắc mình chừng chừng. Thế nhưng, không phải lúc nào mình cũng có thể nhìn cuộc sống bằng con mắt của ‘nửa ly nước đầy’. Sáng nay, tôi lại gặp một việc thử thách thái độ của tôi.

Giờ điểm tâm ở ký thúc xá là 8 am đến 8.30 am. Tôi thường xuống nhà ăn từ 8.05 am hoặc trễ nhất là 8.10 am, vì tôi không muốn ăn quá trễ khi ghế ngổn ngang và bàn la liệt những mẩu bánh mì vụn hay vây ố những vết nước trà bẩn. Hôm nay, như mọi ngày, tôi có mặt ở nhà ăn lúc 8.05 am. Trong nhà ăn, có hai bạn sinh viên đang ngồi đọc báo.

Theo menu, sáng nay chúng tôi dùng paratha (một loại bánh bột mì nướng), mà chưa thấy gì cả, ngay cả trà sữa, vẫn chưa có trên bàn. Thêm vài bạn trai bước vào, cùng ngồi đợi. Tôi cảm thấy không được vui lắm khi phải mất ít nhất 15 phút để chờ đợi mấy chú nhà bếp chuẩn bị cán bột và nướng bánh. Tôi ngồi thừ ra, để tờ báo trước mặt, nhìn mà lại không đọc, đang phân vân đi lên phòng trở lại hay nán ở nhà ăn. Hai sinh viên nam nữa bước vào, thấy trên bàn chưa có bánh paratha cũng như trà, hai bạn bước thẳng xuống nhà bếp.

Nhìn xuyên qua cửa giữa nhà ăn nối với nhà bếp, tôi thấy một bạn phụ nhồi bột, một bạn nắn bánh, thao tác rất nhanh gọn như thể đã quen phụ bếp như thế ở nhà rồi. Ở trên nhà ăn, mấy bạn đọc báo hoặc cùng nhau nói chuyện hay đơn giản chỉ ngồi đợi mà không ai tỏ ra khó chịu hay bất bình cả.

Nhìn tới nhìn lui, chỉ có mình tôi là bất an (dù bề ngoài, chắc không ai phát hiện ra). Tôi vội nhớ câu tôi để trên sidebar của blog “chúng ta không thể làm thay đổi quá khứ. Chúng ta cũng không thể thay đổi được cách làm cách nghĩ của người khác. Chúng ta không thể làm thay đổi những gì không thể đổi thay. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là tạo cho mình một điểm tựa, đó là thái độ sống [tích cực].” Trễ nãi là chuyện muôn thuở của người Ấn, sao mình lại khó chịu trong lòng chứ? Mấy người phục vụ này trễ, nhưng họ cũng đang làm đó mà. Vả lại, vẫn tốt hơn những ngày đình công không có điểm tâm, cơm trưa chiều gì cả thì sao? Thế là lòng tôi yên ổn lại, tôi đọc báo. Chừng 10 phút sau, tôi cũng được phục vụ hai cái bánh paratha như bao người khác.

Nếu ngay từ đầu, tôi biết nhìn cuộc sống bằng ‘nửa ly nước đầy’, tôi sẽ đỡ lỗ lã hơn rồi!

Saturday, December 20, 2008

Sport Day

Hôm nay, Sport Day ở CIE trong chuỗi hoạt động kỷ niệm ngày thành lập khoa. Thầy cô và sinh viên cùng chơi bóng chày. Ngồi trên phòng cũng không yên, vì âm lượng của giọng người 'bình luận viên’ quá lớn, thế là tôi xuống sân chơi. Kể ra, cũng nên xuống coi một tí để thấy ‘tinh thần thể thao’ của CIE!


Trời đất ạ, giáo sư B.B., làm đội trưởng đội giáo viên! Cười không chịu nổi. Năm ngoái, chỉ làm đội phó thôi mà năm này lên chức đội trưởng rồi. Cả một năm thấy ngồi hoài trong văn phòng, rồi lại ở giảng đường, không biết đến cây chày (bat) là gì mà cũng lên chức hen! Chắc có số…làm quan; bình thường làm trưởng khoa, riêng hôm nay làm đội trưởng đội bóng chày nữa chứ, oai thật! Hôm nay ra sân vận động, thấy 'đội trưởng' oai nhờ chiếc mũ lưỡi trai quá!


Cùng ra sân, cả hai đội có vài động tác warm-up để chuẩn bị vào cuộc. Nhóm giáo viên còn rủ nhau chạy một vòng quanh sân vận động nữa chứ. Thế là 'đội trưởng' chạy trước, lính chạy sau. Có người ục ịch cũng ráng mà chạy, quá chừng tếu luôn! Mấy bạn sinh viên, khi rảnh vẫn chơi môn thể thao này, nên khá điêu luyện, trong khi các thầy cô giáo chỉ ngồi bàn giấy và quen bục giảng, cầm phấn quen hơn cầm chày đánh banh, giờ vào sân, chỉ nhìn thôi đã mắc cười không nín được. Có hơn nửa đội là…bụng phệ và ngần ấy người thuộc U50, U60, tóc bạc gần hết, cùng nhau chạy, nhảy và huơ tay chân khởi động, tôi đành ngó lơ để có thể nín cười...


Sau khi tung đồng tiền sấp-ngửa để chọn quyền ưu tiên, đội sinh viên thắng, thế là đội trưởng chọn đánh trước, đội giáo viên quăng banh! Ah, lại đội trưởng (phe giáo viên) mở hàng quăng banh cho đội trưởng (sinh viên) đánh, cả sân vỗ tay reo hò động viên. Mới quăng đến banh thứ ba, cô B.B. đã 'gets-out' được một người ở phe đội bạn rồi! Thế là cả nhóm chạy lại, xúm nhau chúc mừng ‘đội trưởng’ và ôm nhau nhảy cẫng lên ăn mừng chiến thắng, trông giống trẻ con, không nín cười được…


Tiếng cổ động viên la ó, vỗ tay, trống đánh dập dồn và giọng bình luận viên sôi nổi làm náo động sân chơi. Hôm nay trời mù, gió đông hơi lạnh, nhưng tất cả cảm thấy nóng lên với không khí của ngày thể thao!



Cảnh sân chơi

Sẵn sàng...ra sân!

Đội trưởng dẫn 'lính' chạy 'khởi động' một vòng quanh sân vận động

Cùng nhau chúc may mắn và 'ngoéo tay' cùng quyết thắng!

Hai đội quăng đồng tiền sấp-ngửa để chọn quyền ưu tiên


Đội 'giáo viên' chia nhiệm vụ và chuẩn bị quăng banh



Khởi động trước khi vào cuộc, nếu không, dễ bị giãn cơ, bong gân rồi không cầm viết, cầm phấn được thì mệt!

Quăng banh thứ ba (mới được nửa over), đội trưởng 'gets out' đội bạn, thành công...ngoài mong đợi!


Ôm nhau nhảy cẫng lên như trẻ nít, 'ăn mừng chiến thắng' như dân...chuyên nghiệp!

Cổ động viên bao quanh sân chơi




Friday, December 19, 2008

up after down!!!

Amid hectic schedule, prof. B.B. has just remembered what I expected from her, she called me up. She needed the first ch. for re-reading. Cheerful mood!!!

Thursday, December 18, 2008

Foundation week


Ngày 15 tháng 8 năm 1947, Ấn Độ độc lập. Đến ngày 29 tháng 8 năm 1947, Bộ giáo Dục chính thức thành lập với đầy đủ chức năng nhiệm vụ của Bộ này. Ngày 19 tháng 12 năm 1947, Pandit Jawaharlal Nehru, tổng thống đầu tiên của Ấn Độ, cùng với Maulana Abdul Kalam Azad, bộ trưởng giáo dục đầu tiên, đã đến nơi đây làm lễ 'Đặt đá' xây dựng cơ sở CIE này với mục đích đào tạo giáo viên và coi đây là cơ sở nghiên cứu khoa học về giáo dục cũng như đào tạo nhân tài cho đất nước. Điều này cho thấy Ấn Độ chú trọng đến giáo dục như thế nào và rõ ràng, CIE có một vai trò khá quan trọng trong sự nghiệp giáo dục ở đất nước này.
Từ đó, CIE được biết đến như là Viện giáo dục quốc gia, như tên gọi của nó, CIE và có ngày 'sinh nhật' là 19 tháng 12 hàng năm! Mãi đến ngày nay, cái tên CIE thân thương gắn trên môi và ghi trong tim bao người. CIE mỗi năm lần lượt đón chào và đưa tiễn bao nhiêu sinh viên, song hình ảnh của nó vẫn luôn sống động nguyên vẹn trong mỗi người và các hoạt động của CIE được tái hiện và làm mới khi các bạn về công tác ở các trường học. Bắt đầu từ hôm nay, CIE (Central Institute of Education) có một tuần (ngày 18 đến ngày 23 tháng 12) kỷ niệm lần thứ 61 ngày thành lập khoa.





Sau này, CIE sáp nhập vào trường Đại học Delhi cùng với hai college nữa tạo thành một khoa (Faculty), gọi là 'khoa Giáo dục' và bản thân CIE trở thành một phân khoa (Department), thế nhưng, nói ‘khoa giáo dục của trường Delhi’ thì ít người biết, còn nói CIE thì hầu như chẳng xa lạ với nhiều người. Cái danh tiếng của trường mình học đôi khi là áp lực cho tụi sinh viên chúng tôi vì thấy khả năng mình không xứng với tầm cỡ của cơ sở nơi mình được đào tạo. Mỗi lần về các trường phổ thông đi thực tế hay đi đến tổ chức, cơ sở giáo dục nào, chúng tôi được biết đến với cái tên là 'dân CIE'!



Mặc dù là một khoa thành viên của trường đại học Delhi, CIE hoạt động tương đối độc lập theo liên kết ngành dọc với các tổ chức và cơ sở giáo dục trong và ngoài nước hơn là với các khoa thành viên của trường Delhi.

Với trọng trách đào tạo những người giáo viên năng động, sáng tạo và yêu nghề yêu trẻ, ngoài giờ học, thảo luận, thực tập giảng dạy, làm nghiên cứu, viết tiểu luận…sinh viên B.Ed. (bachelor of Education; B.Ed. khác với BA; tiêu chuẩn tối thiểu để vào khóa B.Ed. là có bằng BA) còn tham gia vào rất nhiều hoạt động khác của CIE. Tất cả các hoạt động này nhằm trang bị cho sinh viên, ngoài việc giảng dạy, còn có thêm nhiều kỹ năng khác nhau như quản lý, diễn thuyết trước công chúng, làm việc cộng đồng và tổ chức sáng tạo. Kỷ niệm thành lập trường năm nào cũng được tổ chức trong một tuần với nhiều hoạt động khác nhau, tạo điều kiện cho tất cả thầy cô giáo và sinh viên tham gia. Cơ hội tham gia các hoạt động trong những ngày này chia đều cho tất cả.


Ngày đầu tiên trong chuỗi sự kiện này, sự sáng tạo, năng động và tinh thần tập thể của thầy-trò CIE được thể hiện qua các hoạt động văn hóa xoay quanh một số chủ đề tự chọn. Ngày thứ hai, ngày chính thức tổ chức sinh nhật. Thường thì sau phần tổng kết của Trưởng khoa, khách mời đặc biệt sẽ có bài nói chuyện chừng 2 tiếng đồng hồ. Theo thông lệ, hiệu trưởng hoặc hiệu phó trường đại học Delhi chủ trì buổi lễ chính thức này.


Rồi có một ngày thể thao trong chuỗi các sự kiện này (năm nay là ngày 20/12), thầy cô cùng sinh viên tham gia môn thể thao ưa thích nhất của người Ấn là bóng chày. Thầy cô giáo một đội, sinh viên một đội và cuộc chơi thật sôi động, hào hứng nhưng không kém phần nghiêm túc. Có cả bình luận viên nữa, còn cổ động viên thì...chật cả sân chơi! Chưa vào cuộc chơi, kết quả đã rõ: lúc nào đội sinh viên cũng thắng và điều này, ai cũng có thể hiểu được! Còn thầy cô, trước khi chơi đã nắm chắc phần thua, ấy thế mà cũng rất hăm hở. Được cái là sinh viên cũng biết...'lấy lòng' (vì còn học đến 4 tháng rưỡi nữa í mà) nên cổ vũ vô cùng nồng nhiệt cho phe giáo viên, nhất là cô giáo; hễ cô nào cầm được cái chày (bat) mà đánh trúng trái banh, chưa được điểm (tính bằng 'run' trong cricket) nào, cũng nhận được sự cổ vũ chưa từng thấy ở CIE!

Ngày sau đó, một hội chợ nhỏ gọi là 'Bal mela' ('Children's Fair') được tổ chức cho các em học sinh Tiểu học của một nhỏ trực thuộc CIE. Trường này, CIE lập ra, dự định sẽ làm nơi thực tập cho sinh viên CIE trong các nghiên cứu nhỏ khi cần trong quá trình học. Thế nhưng, với kinh phí tài trợ giới hạn, trường không đủ cơ sở vật chất cần thiết để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Thế là trường này trở thành cơ sở giáo dục dành cho trẻ em nghèo. Nhân dịp kỷ niệm thành lập trường, các em được ‘chiêu đãi’ với nhiều trò chơi, đồ chơi và ăn uống. Các anh chị sinh viên sẽ là người ‘đăng cai’ hội chợ này và các em nhỏ này được một ngày vui chơi thỏa thích!

Ngày cuối cùng sẽ là ngày biểu diễn văn nghệ và thế là cả một nhóm mấy chục sinh viên sắp chật sân khấu chỉ để hát một bài đồng ca. Trong buổi biểu diễn văn hóa nghệ thuật ấy, ai cũng là diễn viên và ai cũng là khán giả cả! Trong ngày này, toàn bộ sinh viên lần lượt lên sân khấu biểu diễn. Thế nhưng, vào một dịp đặc biệt khác, ngày hết khóa (gọi là hết khóa chứ thật ra là hết chương trình học chứ chưa thi cuối năm) thì tất cả thầy cô biểu diễn văn nghệ cho sinh viên coi! Có lẽ mục đích buổi văn nghệ này là giúp sinh viên giải stress vì mùa thi gần kề! Sòng phẳng như vậy là cùng!

Hôm nay, ngày đầu tiên trong tuần lễ kỷ niệm, sinh viên B.Ed. chia làm 4 ‘gia đình’ gọi là ‘house’: Gandhi house, Jammu-Kashmir house, Manupur house và Orissa house. Mỗi ‘gia đình’ tha hồ trổ tài bằng mọi cách để diễn tả những nét văn hóa đặc sắc nhất đại diện cho ‘gia đình’ mình. Tất cả phải là ‘cây nhà lá vườn’, tự làm mọi thứ để thể hiện năng lực sáng tạo tối đa chứ không được mua hàng ‘ready-made’. Thế là các ‘gia đình’ thi nhau nghĩ ra ý tưởng, thực hiện hóa ý tưởng đó bằng cách tạo dựng lại nếp sống văn hóa ở địa phương mình ở hay những cảnh trí đặc trưng, diễn kịch, múa hát…rất sinh động. Tôi lấy làm lạ là với lịch học khá dày và nhất là lịch thực tập ở trường thật căng thẳng, các bạn tập kịch, múa hát lúc nào mà thật nhuyễn. ‘Nhà’ nào cũng thể hiện được nét đặc thù của ‘gia đình’ mình cả.

Gandhi house: tạo tượng của Gandhi, sưu tầm tranh ảnh, các tài liệu liên quan đến cuộc đời Gandhi. Một vở kịch khá sinh động diễn tả lại cảnh Gandhi hướng dẫn quần chúng trong một cuộc đấu tranh bất bạo động. Hát, múa cũng khá nhiều, nhạc du dương, từng bước chân di chuyển nhẹ nhàng, uyển chuyển trông thật đẹp mắt nhưng nội dung các ca từ, tuyệt nhiên tôi không hiểu vì dốt Hindi.

Jammu-Kashmir house: sơn vẽ các tấm bạt dựng nên một vùng dân cư ở rừng núi Hy-mã-lạp-sơn. Từng dải vải màu xanh mỏng căng từ trên cao chạy xuống tượng trưng cho các dòng suối từ núi đồi đổ về xuôi. Đền thần, chùa thờ Phật theo tín ngưỡng Phật giáo Tây Tạng cũng được tái hiện trong một sân cỏ nhỏ của CIE trông khá sinh động. Các sản phẩm của Kashmir như thảm, khăn, lụa…được trưng bày. Y phục truyền thống của người dân vùng này được giới thiệu. Các điệu múa dân gian khá nổi bật với cách ănmặc và thao tác tay chân thật đặc biệt.

Manupur house: trưng bày các sản phẩm thủ công rất đẹp và tinh xảo. Tương tự các ‘nhà’ khác, một nhóm sinh viên mặc y phục truyền thống của vùng đất này và biểu diễn một số tiết mục văn nghệ đặc trưng.

Orissa house: ‘nhà’ này phác họa nhiều nét văn hóa đặc sắc của bang Orissa. Orissa xưa kia chính là vùng Kalinga, nơi xảy ra cuộc chiến lịch sử dưới triều đại vua Ashoka (năm thứ 8 sau khi vua Ashoka đăng quang). Cuộc chiến đẫm máu này đã đánh động tâm thức của Ashoka với hơn 100 ngàn người chết cho cuộc chiến và nhà vua trở thành Phật tử và là người chủ trương bất bạo động sao đó. Trong dịp foundation, sự kiện này được sinh viên ‘gia đình’ Orissa tóm tắt và viết trên một tờ giấy rô-ki lớn khổ treo ở một gốc cây và sinh động nhất là một màn kịch ngắn được dàn dựng về Ashoka cải đạo sang Phật giáo.

‘Gia đình’ Orissa còn diễn tả sự phong phú về văn hóa và tôn giáo ở đây qua các đền thờ đạo Hindu, Kỳ-na giáo và Phật giáo. Mỗi tôn giáo, được dựng một cái lều nho nhỏ để trang trí và diễn kịch trong đó. (Điều này làm tôi nhớ lại những lần đi trại ở Việt Nam hết sức). Hầu hết trong các bản kịch, sinh viên đều dùng lời thoại là tiếng Hindi. Riêng vở kịch ngắn diễn tả nội dung Đức Phật dạy La-hầu-la tai hại của việc nói dối qua hình tượng chậu nước, các sinh viên dùng tiếng Anh (nội dung từ kinh số 61, Trung bộ). ‘Gia đình’ này cũng tái hiện lại cuộc sống dân dã ở tiểu bang nghèo nhất Ấn Độ này qua hình ảnh ngôi bếp làng.

Ngày đầu tiên trong tuần lễ kỷ niệm thành lập khoa, CIE tổ chức nhiều sự kiện và hoạt động thật bổ ích mà các bạn B.Ed. đã chuẩn bị từ nhiều ngày trước. Sáng sớm bày ra, dàn dựng đủ thứ và tối lại thu dẹp gọn gàng mọi thứ, khép lại một ngày hoạt động vui nhộn ở CIE trong màn sương mỏng mùa Đông đang nhè nhẹ buông...

Mọi người ra về. Đêm xuống. Không gian yên tĩnh về đêm của CIE được trả lại nguyên vẹn. Ngày mai, ngày lễ chính thức, một sự kiện khác trong chuỗi các hoạt động trong tuần lễ kỷ niệm diễn ra: buổi thuyết trình của Dr. Kiran Datar, cố vấn NKC (National Knowledge Commission), về đề tài "Giáo dục: đổi thay và phát triển" dưới sự chủ trì của hiệu phó trường Đại học Delhi.

Suốt một tuần với các hoạt động dày đặc như thế, nhưng thật vui, nhất là đối với những sinh viên bước vào cổng CIE năm trước và bước ra khỏi cổng trường sau một năm. Các bạn ấy sẽ mang theo rất nhiều hành trang được trang bị từ CIE về các trường phổ thông. Tôi ở đây nhiều năm, chứng kiến nhiều lần tổ chức, với sự chi phối của tâm lý 'nhàm', cùng với thời gian, tôi không háo hức và năng động nhiều như các bạn trẻ mới bước vào CIE từ đầu năm học này, nhưng vẫn thấy các hoạt động trong dịp này thật hay và ý nghĩa vì nội dung mỗi năm mỗi mới.




Manipur house: tư liệu

Manipur house: trang phục truyền thống



Jammu-Kasmir house: sản phẩm thủ công


Jammu-Kasmir house: tái hiện cuộc sống vùng núi Hy-mã-lạp-sơn


'suối' ở Jammu-Kasmir của sinh viên CIE


Gandhi house: dựng tượng Gandhi và sưu tầm tranh ảnh về cuộc đời hoạt động của ông.


Gandhi house: diễn kịch về đấu tranh bất bạo động của Gandhi


Gandhi house: người theo chủ trương của Gandhi cố gắng dàn hòa xung đột


Gandhi house: đồng ca

Orissa house: đền thờ đạo Jain

Orissa house: bếp làng

Orissa house: cảnh đồng quê



Wednesday, December 17, 2008

Sự truyền đạo vĩ đại

Nguồn:

Chuyển ngữ tiếng Việt: nhatkyao

Tượng Phật ở Ayuthaya, Thái Lan. Giữa hoang tàn đổ nát của nhiều tu viện ở Ayuthaya, những công trình nghệ thuật điêu khắc này nhắc chúng ta nhớ về một thời hoàng kim trong quá khứ của khu thánh địa này.

Thật là là một điều hấp dẫn khi các ý tưởng triết học và văn hóa vào thời xa xưa được truyền bá rộng rãi và tự do như không hề có sự chướng ngại ghê gớm của vấn đề ngăn sông cách núi. Ý tưởng vốn có cuộc sống riêng và không thể kềm giữ chúng trong phạm vi một đất nước hay một lãnh thổ địa lý nào. Một trong những câu chuyện đáng nói nhất về ý tưởng truyền bá Đạo Phật rằng, con đường Đạo Phật đi qua là xuyên thẳng Châu Á lục địa.

Theo quan điểm Ấn Độ cổ đại, cuộc sống đầy lòng từ bi. Cuộc sống vốn là chung nhất trong thể nhất như của tạo hóa. Chia ra cách hình thức khác nhau của thế giới là maya hay mithya (thế giới vật chất có thể tri giác được) là sự nhận thức ảo qua cảm nhận chủ quan vốn giới hạn của con người. Chúng ta tin rằng sự phân chia đồng nhất thể và ngã là một sự sai lầm lớn nhất. Nó cột trói chúng ta trong tham đắm vào của cải vật chất thế gian. Chính vì vậy, cuộc đời là khổ, vì không có một mục đích ảo nào có thể đem đến hạnh phúc cho chúng ta được cả. An bình và hạnh phúc chỉ đến với người khi không còn ham muốn.

Tất cả chúng sanh đều ý thức được cuộc đời đầy khổ đau. Như vậy, triết học đều được chào đón nồng nhiệt bất cứ nơi nào nó có mặt. Triết học gây ảnh hưởng đáng kể và thâm nhập vào đời sống bất cứ quốc gia nào mà nó đi qua. Văn hóa của lục địa này (Châu Á) được định hình khi thẩm thấu được đạo đức thâm thúy ấy.

Triết học cũng có khái niệm phi thường của các thần linh. Theo triết mỹ học Ấn Độ, giây phút cảm nhận thẩm mỹ rất gần với trạng thái an lạc của giải thoát. Trách nhiệm của chúng ta đối với cái đẹp được coi như là cảm nhận của mình đối với sự tao nhã của tất cả những gì ẩn tàng trong đó. Trong giây phút cảm nhận cái đẹp, chúng ta có xúc động mạnh. Tóm lại, chúng ta đã mất đi ham muốn vật chất: chúng ta cảm nhận một cái gì đó vượt lên trên ảo giác của mình. Vì thế, triết học và nghệ thuật Ấn Độ cổ đại thường xuyên phô bày cái đẹp siêu phàm của các thần linh trước mắt chúng ta.

Tu viện Phật giáo ở Ayuthaya. Đến thế kỷ 18, thủ đô của Thái Lan là Ayuthaya. Vào thời ấy, đây là một trong những trung tâm Phật giáo hoành tráng nhất Châu Á.

Thiên thần được nhân cách hóa về ý tưởng và đặc tính. Những đặc tính như trí tuệ, từ bi, tốt bụng và can đảm vốn có trong con người mỗi chúng ta. Chúng ta thấy sự miêu tả này qua nghệ thuật: chúng ta tập trung vào các công trình nghệ thuật ấy cho đến khi nào chúng ta cảm nhận những đặc tính ấy nơi chính mình. Những đặc tính này tăng trưởng và dần dần thấm nhuần hoàn toàn vào trong ta.


Triết lý này, cùng với những tín ngưỡng của Phật giáo và Bà la môn giáo, đã lan rộng đến toàn cõi Châu Á từ thời xa xưa ấy. Các truyền thống nghệ thuật nổi lên khắp nơi để tạo nên các thiên thần siêu phàm để hỗ trợ chúng ta trên con đường giác ngộ. Quan điểm về cuộc sống được định hướng rõ, cần phải vượt lên trên vật chất thế gian để đạt đến sự an bình miên viễn.


Vào thời cổ đại, các thương nhân ở Ấn Độ thường đến buôn bán ở các nước trong vùng Địa Trung Hải, Tây Á, Nam Á cũng như Đông Nam Á. Những ý tưởng triết học cũng theo chân các thương gia mà truyền bá nhanh chóng đến các vùng đất này. Nhiều bản chữ cổ, liên hệ với người Hy Lạp là tín đồ của Phật giáo hay Bà la môn giáo trong giai đoạn trước và đầu tây lịch. Cũng có nhiều khu thuộc địa lớn của người La Mã ở Ấn Độ.


Dấu ấn văn hóa Châu Á là chuyến du hành sang Tích Lan của công chúa Sanghamitra, con vua Asoka, vào thế kỷ thứ 3 trước tây lịch. Phật giáo được chào đón nồng nhiệt trên đảo quốc này. Nhiều thế kỷ sau, Tích Lan trở thành trung tâm Phật giáo nguyên thủy, gọi là Phật giáo Theravada.

Các chùa tháp ở Bagan, Miến Điện. Bagan, với công trình kiến trúc, điêu khắc và hội họa uy nghiêm, trở thành một trong những trung tâm Phật giáo nổi tiếng trên thế giới.

Những bức họa xuất hiện sớm nhất ở Tích Lan được tìm thấy ở một hang động trong một ngọn núi đá lớn cao sừng sững Sigiriya. Những bức họa có niên đại ở thế kỷ thứ 5 được tìm thấy ở ngọn núi này có đường nét thanh nhã, chuyển tải ý tưởng thâm thúy, chứa đựng các đặc trưng của truyền thống hội họa được tìm thấy ở hang động Ajanta. Có sự tương đồng lớn giữa các bức họa ở Sigiriya và các bức họa vào thời kỳ sau của Ajanta. Những tranh họa này được tạo ra cùng một giai đoạn. Các đường nét diễn tả chiều sâu nội tâm và đây là một đặc điểm phổ biến của nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ thời bấy giờ. Cảm xúc tinh tế của các nghệ nhân đã truyền vào các tác phẩm của mình tâm đồng cảm và từ bi đến với nhân loại. Những bức họa này, qua các đường nét nhanh nhã nhẹ nhàng, nhắc chúng ta rằng khổ đau có thể chấm dứt trên cuộc đời này.

Vào thế kỷ 12, triều đại Chola trị vì toàn cõi Nam Ấn và nhiều phần của đảo quốc Tích Lan. Các loại tranh họa của thế kỷ thứ 10 được tìm thấy trong ngôi chùa Brihadisvara ở Thanjavur (thuộc Ấn Độ) rất gần gũi với những tranh họa ở Tích Lan. Những bức tranh Phật giáo họa khắc trên tường vào thế kỷ 12 ở thành Polonnaruva minh họa các câu chuyện trong ‘Truyện tiền thân’ (các câu chuyện về những kiếp sống quá khứ của Đức Phật). Những câu chuyện này thể hiện chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống như là một phương tiện chính để chuyển tải giá trị đạo đức vào trong hình thức Phật giáo giai đoạn đầu này. Chúng ta thấy những minh họa của các câu chuyện tiền thân được thể hiện qua nghệ thuật Phật giáo ở các hoa văn trên thanh chắn của tháp Bharut (thuộc bang Madhya Pradesh) từ thế kỷ thứ 2 trước tây lịch trở về trước.

Phật giáo có một truyền thống lâu dài về nghệ thuật đục đẽo các hang động đá. Các hang đá này có thể được sử dụng để hành thiền và là nơi trú ngụ của chư tăng. Từ thời xa xưa, các tường đá này được vẽ tranh và chạm khắc. Tích Lan đã bảo tồn và phát triển được truyền thống xưa là vẽ tranh trong hang động. Sự thiêng liêng từ các vách đá tĩnh lặng bên trong tạo nên một không khí an bình, xa rời những ồn náo của thế giới vật chất đời thường. Những hang động Dambulla có nhiều công trình hội họa và điêu khắc từ những thời kỳ dầu đến thế kỷ 18.

Miến Điện chịu nhiều thử thách khắc nghiệt để rồi Phật giáo và nghệ thuật Phật giáoảnh hưởng đến đất nước này trong nhiều thế kỷ. Cuối thiên niêm kỷ đầu tiên, Miến Điện có quan hệ sâu sắc với trung tâm Phật giáo ở Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya) Bihar, nơi Đức Phật thành tựu giác ngộ. Thật ra, các hình thức kiến trúc ở ngôi Đại Tháp ở Bồ đề đạo tràng được mô phỏng để xây dựng những ngôi chùa ở Bagan (Miến Điện) vào các thế kỷ 11 và 12.

Tranh tường (trong bức họa là vũ công, nhạc công) ở các tu viện ở Bagan vào khoảng thế kỷ 12. Tường bên trong của các tu viện ở Bagan được vẽ rất nhiều tranh tượng. Còn một số tranh tường có niên đại vào thế kỷ 12 là những tranh đẹp nhất trong Phật giáo. Những tranh này rất giống với nghệ thuật hội họa vào thời đại Pala của Ấn Độ cũng như tranh tường thời đại Chola cuối thế kỷ thứ 10 ở tu viện Brihadisvara, Thanjavur.
Vào khoảng thế kỷ 12 và 13, với sự suy tàn của Phật giáo trên bình địa Ấn Độ, các học giả và các nghệ nhân với tâm đạo thuần thành, từ Ấn Độ chạy sang trú ẩn ở Miến Điện. Bagan thời ấy, trở thành một thánh địa với hàng ngàn ngôi chùa. Cảm hứng nghệ thuật ở đây được tiếp thu từ miền Đông Ấn cũng như từ Tích Lan.
Những tranh họa bên trong tường các ngôi chùa này là những bức tranh đẹp nhất và tinh tế nhất trong toàn bộ truyền thống Phật giáo. Những đề tài những tranh họa này thể hiện lấy từ cuộc sống Đức Phật và từ các câu chuyện tiền thân của Ngài.

Vào thời xưa, không có ranh giới giữa các truyền thống tín ngưỡng ở Ấn Độ. Thật ra, các vua ở Miến Điện cũng xức dầu vẩy nước trong khi làm lễ theo truyền thống Ấn giáo. Trong bài tham luận ở một cuộc hội thảo quốc tế, vua Rama IX của Thái Lan đọc thông điệp rằng, các vua Thái là hiện thân của các vị thần Ấn giáo là Siva, Vishnu và Brahma. Theo như lời của học giả người Thái Thanphuying Putrie Viravaidya, “những người bà la môn thi hành nhiệm vụ trong lễ đăng quang. Nhờ đó, các bà la môn này mở cổng trời cho các thần Ấn giáo xuống và họ làm cho con người của vua giống như thần thánh, chứa đựng chân giá trị và nho nhã.”

Từ thời xa xưa, Thái Lan cũng chịu ảnh hưởng triết học Ấn Độ từ Tích Lan và Miến Điện. Quan hệ giao lưu với nước láng giềng Cam-pu-chia và giao dịch thương mại với Ấn Độ bằng đường biển đã đem đến đất nước này những truyền thống thờ thần Ấn giáo. Văn hóa Thái Lan phát triển như một sự tổng hợp kỳ diệu trong sự ảnh hưởng các truyền thống Phật giáo và Bà la môn giáo qua nhiều nguồn khác nhau. Truyền thống chính của người Thái là Phật giáo và một trong những văn hóa mạnh nhất là sử thi Ramayana hay Ramakien của Ấn giáo.

Các hang động ở Dumbulla, Tích Lan. Những tranh tượng công phu oai nghiêm trên các tường bên trong các tu viện là nhân chứng của một thời Phật giáo hưng thịnh trên hai thiên niên kỷ.
Các ngôi chùa ở Bangkok và các nơi khác ở Thái Lan thể hiện một sự pha trộn tuyệt vời giữa các truyền thống Phật giáo và Ấn giáo. Những chùa tháp này được xây dựng để cúng dường Đức Phật và trên các bức tường, nhiều cảnh trong sử thi Ramayana được minh họa bằng tranh vẽ với đường nét tinh xảo và tỉ mỉ.

Sự phân chia các truyền thống tín ngưỡng Ấn Độ thành các tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Ấn giáo, Kỳ na giáo chỉ là một hiện tượng sau này. Các học giả và những người đi chiếm thuộc địa Châu Âu, những người có hiểu biết đặt trên cơ sở của sự phân biệt rạch ròi giữa các truyền thống tôn giáo Semit (giữa Thiên chúa giáo, Hồi giáo và Do thái giáo) không thể hiểu được khi tín đồ thuộc truyền thống tôn giáo này mà lại tôn thờ thần linh của các truyền thống khác.

Từ thời xa xưa, các vua ở khu vực Tây Tạng, đầy nhiệt huyết và thiện chí với Ấn Độ, đã hấp thụ truyền thống Phật giáo. Tạng kinh điển Sanskrit được đem sang Tây Tạng để sẵn sàng làm nền tảng cho tạng kinh Tây Tạng.

Nữ thần Apsaras, tranh tường ở Sigiriya (Tích Lan), thế kỷ thứ 5. Những tranh họa này được tạo ra trong hang động góp phần tạo nên nghệ thuật Phật giáo cổ đại quý giá nhất. Những hoa văn trên bề mặt với đường nét tinh tế và sự biểu cảm qua các hình ảnh trong bức họa nhắc lại nghệ thuật cổ điển ở hang động Ajanta.

Vào thế kỷ thứ 8, đại sư Santarakshita (Thiện Hải Tịch Hộ) từ đại học Nalanda sang Tây Tạng xây dựng ngôi chùa Phật giáo đầu tiên trên đất nước này (tu viện Samye, mô hình kiến trúc mô phỏng theo ngôi Đại viện Odantpuri ở Bihar) và đặt nền tảng cho đời sống tu viện ở đây. Ngài đến cầu thỉnh đại sư Padmasambhava (Liên Hoa Sanh), cũng ở Nalanda, đến viếng thăm Tây Tạng và hỗ trợ trong việc giáo hóa chúng sanh về truyền thống tôn giáo mới (Phật giáo). Padmasambhava, khi ấy đang dạy ở Kashmir, đã đem sang Tây Tạng điệu múa Cham, một điệu múa tâm linh theo truyền thống Kim cương thừa.

Người ta tin rằng, khi múa vũ điệu này, đất đai nơi ấy trở nên thanh tịnh và ma quỷ đều không còn ở đó nữa. Vũ điệu này được trình diễn để mừng cái thiện chiến thắng cái ác: con người vượt lên trên tự ngã của chính mình vốn cột trói người ấy vào trong những dục vọng thế gian thấp hèn. Thời kỳ đại sư Padmasambhava được cho là thời kỳ đầu tiên của cuộc đại truyền bá Phật giáo sang các vùng Hy mã lạp sơn. Cho đến ngày nay, Ngài là vị đạo sư được tôn kính nhất trong cộng đồng Phật tử vùng này.

Bồ tát, tranh tường, ở Polonnaruva (Tích Lan), thế kỷ thứ 12. Sự biểu cảm tinh tế trên khuôn mặt của Bồ tát thể hiện nghệ thuật Phật giáo độc đáo nhất trong phật giáo. Những bức họa này nằm trong những kiệt tác trong số các tranh tượng Phật giáo thời trung đại ở Châu Á.

Vào thế kỷ thứ 10, Yeshe ’Od lên ngôi vua ở Guge, bao gồm Ladakh, Lahaul-Spiti, Kinnaur và miền tây của Tây Tạng. Vào thời bấy giờ, Phật giáo đã suy tàn ở Tây Tạng. Điều làm nhà vua băn khoăn là, dẫu có thực hành theo Phật giáo một tí thôi, sự thực hành ấy cũng bị sai lạc. Các nghi lễ chứa đầy dẫy niềm tin có tính ma mị trong dân gian.

Yeshe ’Od phái Rinchen Zangpo và các học giả khác đến Kashmir để thỉnh kinh điển thuần chân Phật giáo đem về Tây Tạng. Thế rồi, tạng kinh ấy được Zangpo, vị dịch giả danh tiếng được gọi là Lohtsawa hay Đại dịch giả, dịch sang tiếng Tây Tạng. Rinchen Zangpo tiếp tục được sùng kính ở vùng núi Hy mã lạp sơn. Thật ra, trong tâm khảm mọi người, Ngài là hiện thân của một vị thần trong hình thức một con người lịch sử với năng lực siêu phàm.

Truyền thống sùng kính thần linh và thánh nhân qua cử chỉ cúng dường hoa lại tìm thấy trong các tranh họa ở hang động tại Sigiriya (Tích Lan).

Yeshe ’Od và các vị kế thừa sau Ngài xây dựng một dãy gồm 108 tu viện ngang qua Guge. Nhiều công trình điêu khắc và hội họa là tác phẩm của các nghệ nhân đến từ Kashmir. Đây được cho là giai đoạn của cuộc đại truyền bá thứ hai của Phật giáo tại vùng Hy mã lạp sơn. Những tu viện này đặt nền tảng cho nghệ thuật và văn hóa Phật giáo tại vùng rừng núi này.

Nepal, một đất nước vùng đồi núi Hy mã lạp sơn, đã bảo tồn cả Phật giáo và Ấn giáo trong nhiều thế kỷ qua. Đất nước này có vài ngôi tháp uy nghiêm nhất mà cho đến nay, người ta đến lễ bái mỗi ngày. Nepal, về phương diện địa lý, gần gũi với các trung tâm văn hóa của Ấn Độ đại lục và có một di sản triết học và nghệ thuật vĩ đại mà Nepal có được nhờ vào quá trình giao thoa tiếp biến với Ấn Độ qua nhiều thế kỷ. Khi các trung tâm Phật giáo ở Ấn Độ suy tàn vào thế kỷ 12 và 13, số đông chư tăng và học giả chạy sang Nepal lánh nạn. Chư vị này mang theo sang Nepal những gì quý giá nhất, nhiều kinh điển và tranh vẽ vô cùng giá trị.

Ngang qua khu tây Tạng, Nepal cũng thâm nhập các khái niệm thờ thần Shiva của người Kashmir. Thung lũng Kathmandu giống như một chảo pha chế, nơi ấy các tư tưởng triết học miền Đông Ấn Độ giao thoa với tư tưởng triết học từ Kashmir. Phật giáo và Ấn giáo ở Nepal cùng tồn tại như thể không có ranh giới rõ ràng giữa hai truyền thống. Tại tháp Swayambhunath ở Kathmandu, chúng ta thấy nhiều tượng Phật được khắc trên các hình tượng Siva-lingas. Trên đó cũng có cái chùy kim cương lớn (vajra) là biểu tượng của Kim cương thừa Phật giáo.

Tượng Phật vĩ đại ở Polonnaruva. Nét từ ái được biểu hiện qua hình tượng Đức Phật làm cho bức tượng này nổi bật nhất trong các cảnh quan ở Tích Lan. Truyền thống tạc tượng Đức Phật khổng lồ được tìm thấy trong các hang động ở vùng Tây Ấn vào thế kỷ thứ 5 và 6. Nghệ thuật này chẳng bao lâu được truyền sang các nước Châu Á.

Bhutan, một vương quốc nhỏ vùng núi, dã giữ được sự đặc thù và riêng biệt của truyền thống Mật tông. Người ta tin rằng Đại sư Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) có giáng lâm đất nước này trên lưng một con hổ. Ngài đã làm cho vùng đất này trở nên thanh tịnh không còn ma quỷ vốn cản trở sự truyền bá Phật pháp ở đây. Cho đến ngày nay, đại sư Liên Hoa Sanh được coi như một vị thần được sùng kính mến mộ nhất và được cho là hiện thân bằng nhiều hình thức khác nhau ở Bhutan.

Bhutan đã giữ được nghệ thuật tranh họa thuần túy Phật giáo. Nơi đây, người ta có thể cảm nhận được nét sùng kính và vẻ quán chiếu thiền định thể hiện trên các tranh tượng. Theo truyền thống xưa, mục đích của người nghệ nhân không phải tạo nên một công trình nghệ thuật mà tạo nên các công trình này là hành động thể hiện tâm thành kính đối với chân lý vĩnh cửu.

Phật giáo từ Ấn Độ đã du hành trên con đường tơ lụa cùng trên các chuyến xe chở hàng hóa. Đạo Phật đến Trung Quốc từ Trung Á qua Pakistan, Afghanistan và Uzbekistan. Vòng quanh sa mạc Taklamakan vắng đến rợn người là một chuỗi các ốc đảo, nguồn sống của đại lục cằn cỗi. Nhiều hang động Phật giáo nơi đây đã đánh dấu một giai đoạn phát triển đầu tiên của Phật giáo và nghệ thuật Ấn Độ ở Trung Á và Trung Quốc.

Đôn Hoàng, hang động Mộ Cao số 45. Tượng Đức Phật ngồi trong chánh điện với chư Tăng và các hộ pháp. Các tượng này được khắc và vẽ theo các truyền thống điêu khắc Ấn Độ. Khoảng 500 hang động nằm trên một khu đất rộng lớn, là một trong những di sản quý báu lớn nhất của nghệ thuật Phật giáo trên thế giới.

Các tên tuổi của các vị đại học giả và dịch giả sáng lấp lánh trên các chặng đường lịch sử Phật giáo ở Trung Quốc. Nổi bật nhất trong số các vị này là ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) vào thế kỷ thứ 4. Ngài là con của một học giả người Kashmiri là Kumarayana và công chúa Jiva ở Kucha. Lúc lên 9, mẹ Ngài đưa Ngài đến Kashmir và Ngài bắt đầu nghiên cứu Phật giáo nhiều năm ở đây.

Động Đôn Hoàng

Trên đường trở về Kucha, Ngài dịch hơn 40 bản kinh Phật giáo quan trọng, bao gồm kinh Pháp Hoa, sang tiếng Hoa. Những bản kinh này vẫn còn được coi là những bản kinh quan trọng nhất ở Trung Quốc và Nhật Bản.

Một tác giả nổi tiếng là ông Shu Suyun viết rằng “Ngài [Cưu Ma La Thập] thông hiểu Sanskrit và tiếng Hoa. Bản dịch của Ngài rất hay và thể hiện khả năng rất uyên thâm của Ngài. Cho đến ngày nay, khi đã có nhiều bản dịch, nếu ta hỏi chư tăng Trung Quốc, quý vị thích bản dịch nào nhất, họ sẽ trả lời là họ thích bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập. Bản thân tôi cũng thấy bản dịch của Ngài thật là tuyệt vời.”

Chùa Vàng (Kinkaikuji), ngôi chùa Phật giáo ở Kyoto. Ngôi chùa bằng vàng này nguyên được xây dựng vào năm 1397 có dáng như một biệt thự. Sau đó, cơ sở này được xây theo kiến trúc chùa vào thế kỷ thứ 15. Sau một trận hỏa hoạn, ngôi chùa được xây lại lần nữa vào năm 1955. Đó là ngôi chùa ta thấy hiện nay.

Phật giáo và nghệ thuật Phật giáo được đón nhận nồng nhiệt trên khắp các nước Trung Á và Trung Quốc. Từ đây, thông điệp của Đức Phật được truyền đi xa hơn đến các nước Hàn Quốc và Nhật Bản. Tại Viễn Đông, Nhật Bản là đất nước xa nhất tiếp nhận ảnh hưởng của Phật giáo và Ấn giáo.

Triết học về thần linh và thẩm mỹ được phát triển ở Ấn Độ và tăng trưởng hơn ở Nhật Bản. Hơn bất kỳ một nơi nào trên thế giới, văn hóa Nhật Bản rất nhạy cảm với cái đẹp của mọi sự vật hiện tượng trong cuộc sống quanh ta. Tinh thần an bình và hòa hợp cùng với sự nhận chân được giá trị của cái đẹp được thấm nhuần trong cuộc sống của người Nhật.

Phật giáo là một nếp văn hóa vĩ đại nhất về lối sống an bình và đạo đức. Đây là khả năng cảm nhận cuộc sống giúp chúng ta xa rời những ồn náo và hỗn loạn khổ đau của thế giới vật chất đời thường. Phật giáo dạy chúng ta từ bỏ những ham muốn do đắm chìm trong ảo giác của vô minh. Bức thông điệp của Đạo Phật là hãy nhìn vào bên trong, chúng ta sẽ tìm thấy được sự an lạc và bình an tối thượng. Giống như các truyền thống tôn giáo Ấn Độ khác, Đạo Phật mang theo bức thông điệp về lòng từ bi rộng lớn và vẫn tôn trọng các thần linh của các tôn giáo khác.

Tuesday, December 16, 2008

Càng đơn giản, càng dễ hiểu


Có những cuốn sách, mỗi lần đọc, mỗi lần thấy mới. Với tôi, cuốn “Mindfulness in Plain English”(Chánh niệm trong tiếng Anh thông dụng) của Trưởng lão Henepola Gunaratana là một trong những cuốn như thế.

Cuốn sách này hướng dẫn người học đạo về phương diện thực hành bằng một thứ ngôn ngữ thông thường, đơn giản, dễ hiểu chứ không phải ngôn ngữ hàn lâm hay chuyên môn. Theo quan điểm của tác giả, càng đơn giản, càng dễ hiểu. Trong ‘Lời nói đầu’, Ngài viết “theo kinh nghiệm của tôi, tôi thấy cách hiệu quả nhất để trình bày cho mọi người hiểu một vấn đề là dùng ngôn từ đơn giản nhất. Ngoài ra, qua những năm tháng giảng dạy, tôi nhận thấy rằng càng dùng ngôn từ cứng nhắc, việc truyền đạt càng kém hiệu quả. Ngôn từ cứng nhắc và khó hiểu ít khi được tiếp nhận, nhất là khi thuyết giảng những vấn đề không liên quan gì đến cuộc sống thường ngày…” Do đó, trong cuốn sách này, tác giả dùng ngôn từ đơn giản (plain), bình thường của quảng đại quần chúng để giảng dạy thiền định về phương diện thực hành phương pháp dưỡng tâm này.


Cuốn "Mindfulness in Plain English" có thể tìm thấy dễ dàng trên vài trang web miễn phí. Tiếng Anh dùng trong cuốn sách này rất đơn giản, dễ hiểu; nội dung cuốn sách khá hay và thực tế, cả người tu sĩ lẫn cư sĩ đều có thể áp dụng được.


Sau đây là một đoạn Ngài viết về mối liên hệ giữa đạo đức, thiền định và trí tuệ (chương 2, trang 23, 24), nhatkyao chuyển ngữ sang tiếng Việt.


Có ba yếu tố hòa quyện vào nhau trong thiền Phật giáo: đạo đức, thiền định và trí tuệ. Các yếu tố tăng trưởng khi chúng ta thực hành thiền ngày càng sâu. Chúng liên quan mật thiết và tác động lẫn nhau nên cần phát triển các yếu tố này đồng thời, chứ không phải lần lượt từng yếu tố một. Khi bạn có trí tuệ thông hiểu được tình thế, yếu tố từ bi sẽ đến tự nhiên. Có từ bi nghĩa là bạn tự biết điều chỉnh tư tưởng, lời nói và hành động của mình để không làm tổn hại đến ai. Như vậy, những thể hiện hành vi của bạn tự động sẽ có đạo đức. Nếu không hiểu các vấn đề này một cách tường tận, bạn có thể tạo nên phiền phức. Thật là một sai lầm nếu không nhận thức được mối tương quan mật thiết trong các hành động của mình. Người nào chờ đến khi hoàn thiện đức rồi mới bắt đầu thực hành thiền định thì chỉ biết ngồi đó mà đợi chữ ‘nhưng’ vốn không bao giờ đến. Người xưa gọi người như thế giống như kẻ mong chờ biển lặng mới chịu xuống tắm.

Hiểu đầy đủ được mối quan hệ giữa các yếu tố này rồi, chúng tôi xin trình bày ba mức độ đạo đức như sau. Mức độ thấp nhất là tuân thủ một số luật lệ do người khác, như một đấng tiên tri, quốc gia, tộc trưởng hay cha mình, áp đặt. Không cần biết ai ra lệnh, người thi hành chỉ biết vâng lời. Một người máy cũng có thể làm được việc này. Và một con khỉ được huấn luyện cũng có thể làm được nếu những luật lệ này đơn giản và nếu nó không muốn ăn đòn vì vi phạm những điều đã quy định. Mức độ này tuyệt nhiên không cần đến thiền. Chỉ cần luật lệ và một người cầm cây roi nhịp nhịp là đủ.

Mức độ đạo đức kế tiếp là tuân theo luật lệ như trên và không cần có người cầm cây roi để quất. Bạn vâng lời vì tự bên trong, bạn tự ý thức được cần tuân thủ luật lệ. Bạn chính là người quất mình mỗi khi vi phạm quy chế. Mức độ này cần có sự kiểm soát tâm mình một tí. Nếu tư duy bị rối loạn, hành động cũng bị rối loạn theo. Và tâm có rèn luyện sẽ giúp người thực hành giảm thiểu rối loạn tinh thần.

Mức độ thứ ba là đạo đức, có thể gọi là đạo lý. Đây là mức phát triển cao nhất, một bước đột phá đáng kể. Người ở mức độ đạo đức này không nhất thiết tuân thủ quyền lực một cách cứng nhắc và ngay lập tức. Thay vào đó, người ấy hành xử theo nhu cầu của từng tình huống. Đạo đức ở mức độ này đòi hỏi có trí tuệ thật sự và có khả năng nhìn bao quát tất cả những yếu tố trong mọi tình huống và đưa đến một giải pháp duy nhất, sáng tạo và phù hợp trong từng tình huống.

Hơn nữa, mỗi cá nhân quyết định những nhu cầu của mình cần biết được hạn chế trong quan điểm chủ quan của bản thân. Người ấy phải thấy toàn bộ tình huống từ cái nhìn khách quan, biết cân nhắc nhu cầu vừa mình vừa người mà không để ai thua thiệt. Nói cách khác, bạn phải chế ngự tham, sân, si và những thói ích kỷ thường tình khác khiến bạn không thể thấy vấn đề từ góc độ của người khác. Chỉ có vậy, bạn mới có thể chọn lựa giải pháp chính xác và thật sự tối ưu cho hành động của mình trong từng tình huống cụ thể. Mức độ đạo đức cao nhất này đòi hỏi thiền tập, ngoại trừ trường hợp người mới sanh ra đã là bậc thánh. Không còn cách nào khác hơn để có được kỹ năng này. Thế nhưng, tiến trình sàng lọc cần thiết ở mức độ này khá mệt mỏi. Nếu người thực hành vận dụng mọi yếu tố trong một tình huống với tâm có ý thức, người ấy sẽ kiệt sức ngay. Tri thức không thể giữ nhiều trái banh trong không trung cùng một lúc. Đó là một việc làm quá sức. May mắn sao, tầng sâu hơn của ý thức có thể đảm nhiệm việc này một cách dễ dàng. Thiền định có khả năng thực hiện công việc chọn lựa cho người thực hành. Điều này cho mình một cảm giác rất lạ.
...

Monday, December 15, 2008

Sự thật!

Trong cuộc họp báo tại Baghdad ngày 24 tháng 12 năm 2008, Tổng thống Mỹ George Bush bị một phóng viên Iraq sỉ nhục bằng cách ném hai chiếc giày và mỗi lần ném là một câu chưởi. Tuy giày không đập trúng mặt, nhưng có lẽ đây là sự sỉ nhục nhất trong suốt 2 nhiệm kỳ tổng thống của ông.
Khi ném chiếc giày thứ nhất:
“Đây là nụ hôn vĩnh biệt của dân Iraq dành cho ông, đồ chó.”
Khi ném chiếc giày thứ hai:
“Còn chiếc này dành cho các người vợ góa, con côi và những ai đã chết ở Iraq.” (Muntadar al-Zaidi, 14th December, 2008)
Còn đây là câu nói của ông chủ nhà trắng:
“Nếu bạn muốn biết sự thật, anh ta đã ném chiếc giày có size số 10” (George Bush, 14th December, 2008)


Nguồn: BBC

Sunday, December 14, 2008

Tri ân

Hôm nay, ngày tiễn đưa nhục thân Ngoại về với đất...

Xin chân thành cám ơn tất cả mọi người đã quan tâm thăm viếng, gởi vòng hoa điếu, tụng kinh hộ niệm và tiễn đưa linh cữu Bà chúng tôi về nơi an nghỉ.

Saturday, December 13, 2008

Tin khủng!

Hôm nay, thấy trên vnexpress đăng một tin giật cái tít là “Mỗi ngày một triệu trẻ em hứng chịu bạo lực học đường”, tôi giật mình!

Tôi giật mình vì không phải số lượng ‘một triệu trẻ em chịu bạo lực mỗi ngày” mà giật mình vì con số chính xác như vậy, lấy đâu ra? Đọc vào nội dung, tôi chẳng tìm thấy con số MỘT TRIỆU ở đâu cả. Phóng viên có dẫn lời nói của ông Pierce rằng “Giám đốc Tổ chức Plan tại Việt Nam Mark T. Pierce cho biết, bạo lực trong trường học hiện khá phổ biến và ảnh hưởng đến hàng triệu trẻ em, tước đi cơ hội để các em phát triển bình thường và khỏe mạnh.”

Đúng rồi! một trường hợp bạo hành học đường, tùy theo mức độ, có ảnh hưởng đến một lớp, một khối lớp hay cả một trường, nên ông giám đốc Plan phát biểu vậy là đúng. Ông chỉ nói đây là trường hợp phổ biến và có ảnh hưởng đến số đông (hàng triệu) trẻ em, thế mà phóng viên viết lại bằng con số xác định như thế. Blah! Blah! Hết biết! Hơn nữa, theo chỗ tôi hiểu, 'hứng chịu bạo hành' có nghĩa là 'trực tiếp bị bạo hành' thì cái tít bài đã không phản ánh đúng nội dung ông giám đốc Plan phát biểu rồi. Lại thêm 'mỗi ngày' nữa chứ! Nghiên cứu, khảo sát nào cũgn thực hiện trên một khoảng thời gian nhất định, nhưng không thể mỗi ngày được. Việc bạo hành trường học xảy ra, dù nhiều và phổ biến, cũng không thể tính bao nhiêu em bị bạo hành trong mỗi ngày được. Tôi thiết nghĩ, ngôn ngữ nghiên cứu cần rõ ràng và không thể hiểu nhiều nghĩa cho một câu phát biểu có tính chất như một 'finding' thế này.

Theo những thông tin tôi đọc được, từ năm 2003 đến nay, tổ chức Plan làm nghiên cứu ở nhiều nơi trên khắp đất nước Việt Nam, cũng như nhiều quốc gia khác. Thường thì người ta chọn theo địa hình địa lý: Bắc-Trung-Nam hoặc đồng bằng-cao nguyên-miền núi, hoặc thành phố-nông thôn. Phương pháp họ sử dụng thường là khảo sát cộng đồng lớn (survey) với các câu hỏi (questionnaire) và tổng kết tỉ lệ bao nhiêu phần trăm trên tổng số cá thể họ chọn để nghiên cứu có ý kiến này hay ý kiến khác. Từ đó, họ có thể tổng quát hóa và khái quát hóa khi giả thuyết rằng số cá thể chọn ra nghiên cứu có thể đại diện cho toàn thể cộng đồng. (Vì vậy, phương pháp nghiên cứu nào cũng chỉ có giá trị tương đối thôi.)

Thấy con số cụ thể về trẻ em (mà không phải tỉ lệ phần trăm) tôi e không chính xác vì số liệu nghiên cứu về 'trẻ em' nhất thiết phải thuộc nhóm tuổi nào trong các nghiên cứu của Plan chứ. Rõ ràng trong bài viết này, tôi không thấy phóng viên trưng dẫn kết quả nghiên cứu nào của Plan với con số thống kê (dù là tỉ lệ hay số lượng) mà sao lại có một câu kết luận chắc nịch và giật thành tít của bài báo như thế nhỉ?

Friday, December 12, 2008

Nguyên nhân suy tàn

Nói về sự suy tàn của Phật giáo trên đất nước Ấn Độ, theo Ngài Dalai Lama (mà Ngài nói với người phỏng vấn rằng, đây là quan điểm của một tác giả trong cuốn sách mà người ấy gởi cho Ngài), có ba nguyên nhân chính. Thứ nhất, những người ủng hộ đạo tràng ngày càng có chiều hướng nghiêng về các truyền thống phi Phật giáo. Thứ hai, những thế lực bên ngoài như Hồi giáo và các thế lực khác cố tình hủy diệt Phật giáo. Thứ ba, chính các tu viện và người xuất gia đã trở nên giàu có và ky cóp nhiều vàng bạc dưới danh nghĩa của kinh luận. Thật ra, những người này đã sa đọa trong rượu chè và sắc dục. Những chuyện như thế đã xảy ra. Cho nên dân chúng mất niềm tin, có người oán ghét các người tu và không còn tin tưởng những người xuất gia nữa. (The Story of Tibet: Conversations with the Dalai Lama, do Thomas Laird biên soạn, trang 94).

Để trả lời câu hỏi, phải chăng những cuộc tấn công của Hồi giáo là nguyên nhân suy tàn của Phật giáo trên đất nước Ấn Độ không, đức Dalai Lama đã trả lời như thế. Tôi tin rằng, bây giờ, nếu có ai hỏi về nguyên nhân suy tàn của Phật giáo nói chung hay ở bất cứ một nơi nào, Ngài cũng sẽ trả lời tương tự vì vấn đề này đã quá rõ. Một tôn giáo suy tàn tất nhiên do tác động từ bên ngoài cũng như mục ruỗng từ bên trong, trong đó, các yếu tố nội bộ đóng vai trò quyết định hơn. Với Phật giáo, yếu tố bên trong là tăng ni xuất gia và cư sĩ tại gia. Nếu hai thành phần này ung thối thì không có thế lực nào khác có thể chống đỡ ngôi nhà Phật pháp được.

Ở trang tiếp theo (trang 95), Ngài khẳng định “Tôi nghĩ rằng trường hợp của người Tây tạng cũng tương tự như trường hợp của người Ấn, có khuynh hướng đi tìm kiếm những nguyên nhân bên ngoài. Khuynh hướng nhìn vào những thế lực bên ngoài đã ăn sâu vào tâm thức con người và rất khó loại bỏ. Chúng ta chẳng thể làm được gì nhiều đối với những người khác, đối với các thế lực bên ngoài. Nhưng chính chúng ta, nếu không hành trì, không giữ gìn giới luật cho tinh nghiêm thì tôn giáo của mình sẽ trở thành đạo đức giả. Đây là một sự thật. Đây cũng chính là lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ và Tây tạng.”

Có những sự thật ai cũng biết mà cần có người nhắc thì mình mới ‘tỉnh’ ra! Về các nguyên nhân gây nên sự hủy diệt của Đạo Phật cũng như tâm lý cho là ‘chỉ do thế lực bên ngoài’ của người trong đạo không phải chúng ta không biết. Vả lại, không chỉ Ngài Dala Lama mà trước đó, nhiều tác giả như Kanai Lal Hazra hay Träumereien eines Denker cũng nói đến vấn đề này rồi. Tuy nhiên, có người nhắc thì ý tưởng này được hâm nóng một lần nữa. Điều quan trọng là, nếu chúng ta xác định ‘mình là người đạo Phật’ thì mình là đối tượng nào và nên làm gì? Nếu là cư sĩ phật tử, mình có chiều hướng nghiêng về các truyền thống phi Phật giáo không? Liệu mình đã hiểu đúng và nắm được cốt lõi của tôn giáo mình chưa? Nếu mình là người xuất gia, mình có đang trở nên giàu có và ky cóp nhiều vàng bạc và bắt đầu có cuộc sống sa đọa mà xa rời mục đích của người xuất gia không?

Những ai là ‘người Đạo Phật’ có thể trả lời được câu hỏi này mà cảm thấy thanh thản trong lòng thì tôi tin chắc rằng, người ấy, nếu không có thể làm gì để góp phần xiển dương Phật pháp, cũng không góp phần hủy hoại tôn giáo đã khơi thông nguồn mạch tâm linh và nuôi dưỡng thiện căn của mình. Thế nhưng, thế nào gọi là 'phi Phật giáo', là ‘ky cóp nhiều’ và sao gọi là ‘sa đọa’ thì mỗi người có định nghĩa và tiêu chuẩn riêng cho mình tùy vào mục tiêu và nỗ lực của từng cá nhân vậy.

Thursday, December 11, 2008

Tro tàn

5.30 pm hôm nay, Ngoại trút hơi thở cuối cùng.
Tôi nhớ đến bài ‘White Ashes’ của Rennyo (1414-1499) nên dịch post lên đây như là một sự nhắc nhớ
:


Khi tôi trầm tư về bản chất thay đổi của cuộc sống con người, tôi nhận ra rằng, từ lúc bắt đầu đến khi chấm dứt, cuộc sống vô thường, khác nào ảo ảnh phù du. Chúng ta chưa thấy người nào có thể sống một vạn năm. Cuộc đời chóng vánh làm sao!



Ai trên đời này có thể sống khỏe mạnh đến 100 tuổi? Cuộc sống qua mau. Không biết được tôi sẽ chết trước hay người khác ra đi trước. Ta cũng không biết cái chết đến với mình hôm nay hay ngày mai, chỉ biết rằng, một ngày nào đó, ta sẽ giã từ cuộc sống. Cuộc sống lướt nhanh, như giọt sương mai trên đầu ngọn cỏ.

Do vậy, khuôn mặt chúng ta rạng ngời trong sớm mai, chiều xuống đã hóa thành nắm tro tàn. Một khi ngọn gió vô thường thổi qua, mắt ta nhắm lại, hơi thở ra đi vĩnh viễn. Rồi khuôn mặt rạng ngời ấy đổi màu, sắc diện tươi tắn đầy sức sống như hoa đào rộ nở giờ còn đâu. Gia đình và người thân quây quần than khóc, có được gì đâu? Bất lực buông tay, người thân đành đem người đã mất ra cánh đồng, rồi những gì còn lại sau khi thiêu xác là nắm tro tàn sau làn khói vương giữa đêm cô tịch. Câm lặng trĩu buồn không thốt thành lời.

Như thế đấy, bản chất phù du tạm bợ của kiếp sống con người là cái chết đến với tất cả, già cũng như trẻ không hề phân biệt. Do đó, chúng ta nhanh chóng ghi vào tâm trí vấn đề quan trọng nhất trước khi qua kiếp sống sau là một lòng thâm tín vào Đức Phật A Di Đà, và không quên niệm danh hiệu Ngài.

Thành kính,


Đây là bản dịch tiếng Anh (từ tiếng Nhật) của Hisao Inagaki và các cộng sự:

“When I deeply contemplate the transient nature of human life, I realize that, from beginning to end, life is impermanent like an illusion. We have not yet heard of anyone who lived ten thousand years. How fleeting is a lifetime!

Who in this world today can maintain a human form for even a hundred years? There is no knowing whether I will die first or others, whether death will occur today or tomorrow. We depart one after another more quickly than the dewdrops on the roots or the tips of the blades of grasses. So it is said.
Hence, we may have radiant faces in the morning, but by evening we may turn into white ashes. Once the winds of impermanence have blown, our eyes are instantly closed and our breath stops forever. Then, our radiant face changes its color, and the attractive countenance like peach and plum blossoms is lost. Family and relatives will gather and grieve, but all to no avail? Since there is nothing else that can be done, they carry the deceased out to the fields, and then what is left after the body has been cremated and has turned into the midnight smoke is just white ashes. Words fail to describe the sadness of it all.

Thus the ephemeral nature of human existence is such that death comes to young and old alike without discrimination. So we should all quickly take to heart the matter of the greatest importance of the afterlife, entrust ourselves deeply to Amida Buddha, and recite the nembutsu. Humbly and respectfully.”

Bạo hành trẻ em

Mỗi lần đọc tin, thấy chuyện trẻ em bị bạo hành là tôi cứ nhớ lại những chuyện bạo hành học đường như thế hồi tôi còn bé…

Những chuyện như vậy không phải đến bây giờ mới xảy ra. Tôi nhớ hồi còn nhỏ, cô giáo vẫn thường đánh và phạt học trò. Trong các thầy cô giáo dạy tôi hồi cấp I, cô Vu dạy lớp 1 là đáng sợ nhất. Hình phạt đánh hay vặn tai thì cô áp dụng cá nhân còn phạt thì cả lớp cùng lãnh đòn dù chỉ một vài cá nhân gây ra. Hình phát phổ biến nhất là bắt cả lớp đứng trong thời gian khá lâu, đôi khi quỳ trên ghế. Còn ngậm thước kẻ hay giơ hai tay ‘đầu hàng’ được 'ưu tiên' áp dụng thường xuyên hơn. Có hôm có thầy hiệu phó đi ngang, chúng tôi được ‘giải cứu’ sớm hơn thời hạn. Nhiều hôm, giờ ra chơi, chúng tôi có dịp cười lăn cười lộn khi lắm đứa bỗng dưng có râu vì vấy mực khi ngậm thước kẻ. Vui nhất là mình thấy mặt người khác mà không tự thấy mặt mình, nên cứ ‘tự tin’ mà cười bạn. Đến khi nghe “mặt mi cũng lem nhem chứ có thua ai đâu” mới tiu nghỉu, mặt mày bí xị, lo mà ‘cạo râu’ bằng cách kỳ cọ đến đỏ da. Những hình phạt đó cứ theo tôi suốt tận bây giờ. Không sao quên được. Hồi đó, suy nghĩ của chúng tôi chưa đủ lớn để có thể nghĩ gì, nhưng hầu hết học trò trong lớp, đứa nào cũng ghét cô giáo cả. Bản thân tôi có đêm mất ngủ chỉ vì cô đánh một bạn ngồi bên cạnh. Trời đất ạ, trẻ em mà bắt ngồi im như thóc thì có nước người mụ mị thêm ra. Tinh nghịch một chút thì ăn đòn thường xuyên mới ác chứ! Trẻ con mà, đòn thì cũng sợ mà bảo không nghịch không chơi thì chết mất!

Có một lần, thằng Nghĩa ngồi gần tôi bị đòn, trận đòn mà tôi còn nhớ như in trong tâm trí đến tận giờ này. Đơn giản là hôm đó, trong giờ học, nó đứng dậy, trườn người về phía bàn trước, đưa hai hòn bi chai cho thằng Nam, nói “mi cất giùm hai hòn bi, chút nữa, hai đứa mình chơi. Túi quần tao bị lủng mất.” Hồi đó, bọn con nít tụi tôi cái gì cũng cười được. Nghe thằng Nghĩa nói cái túi quần lủng mà mấy đứa bên cạnh (có cả tôi) cười rúc rích, đủ để cô giáo đang viết bài trên bảng, quay xuống lườm mắt. Chưa nín ngay được, vài đứa còn khúc khích, thế là cô đi ngay đến chỗ bàn tôi ngồi. Cô hỏi “em nào?”. Với cô, la rầy đánh đập là "chuyện thường ở huyện", nên khi nghe hỏi gọn lỏn "em nào?", chúng tôi đứa nào cũng hiểu "em nào gây mất trật tự trong lớp?". Thằng Nghĩa vội vàng đứng lên nhận tội “dạ em!”. Sẵn cây thước trong tay, cô nện cho nó hai phát thẳng tay, miệng cô quát “dạ em! dạ em!” Thằng Nghĩa mặt cắt không còn giọt máu. Nó đau quá, đưa tay ra sau che mông, cô nện cái thứ ba, không quên rít qua kẽ răng “dạ em!” rồi quay ngoắt đi lên như không xảy ra chuyện gì. Thước cô nện vào mu tay thằng Nghĩa đau quá, nó vẩy vẩy tay trong không khí, miệng rên rỉ “đau quá! đau quá!”, tôi thấy thương nó vô cùng. Chúng tôi ngồi im thin thít. Từ đó đến giờ ra chơi, tôi không biết cô giảng gì nữa. Đêm đó, tôi, một con bé 6 tuổi, không sao ngủ được. Hình ảnh cô giáo, giọng cô rít lên giận dữ, hình ảnh thằng Nghĩa vẩy tay lẩy bẩy, mặt tái mét hằn trong tâm trí tôi.
Sau này lớn lên, mỗi lần nghĩ lại cách hành xử phi giáo dục này của cô giáo lớp 1, tôi buồn kinh khủng. Mới bước vào lớp 1, lớp đầu tiên trong môi trường học đường, cô giáo đã sử dụng những biện pháp hình phạt làm tổn thương đến thể xác và tinh thần bọn trẻ con chúng tôi như vậy thật không thể tưởng tượng nổi. Thằng bé biết mình có lỗi, ngoan ngoãn đứng lên nhận lỗi liền mà bị đánh như thế đó, vậy cái tâm của người lớn, đừng nói là người làm công tác giáo dục, cất ở đâu mất rồi?

Thầy cô sử dùng hình phạt đánh đập, dọa nạt, la mắng nặng lời với học sinh, liệu có bao giờ nghĩ rằng những hành vi ấy sẽ theo suốt cuộc đời của những đứa trẻ bị bạo hành ấy không? Tôi viết ra câu chuyện của mình hơn 30 năm về trước từ trong ký ức nguyên vẹn của mình đủ thầy nó hằn thế nào trong tâm hồn non nớt của tuổi thơ. Không những tôi, bạn bè lớp tôi, nhiều đứa vẫn còn nhớ câu chuyện này. Cách đây hai năm, tôi có duyên gặp lại mấy đứa, tụi nó còn nhắc lại, chuyện cô giáo Vu hay đánh học trò và chúng tôi thường xuyên ‘mọc râu’, cũng có đứa nhắc lại chuyện thằng Nghĩa, cả bọn nhao nhao giành nhau kể rồi cười...

Gần đây, chúng ta thấy nạn bạo hành học đường ngày càng nhiều. Điều này không có nghĩa trước đây tình trạng này ít hay không có. Chẳng qua, hiện nay, những câu chuyện bạo hành trở nên lan rộng hơn là nhờ truyền thông và công luận. Thế nhưng, những câu chuyện trên báo chỉ cũng chỉ là đại diện như tảng băng trên mặt nước thôi. Phần chìm khuất còn nhiều hơn và đáng nói hơn. Biết bao nhiêu chuyện bạo hành trường học đau lòng khác xảy ra ở nhiều nơi mà không được can thiệp hay biết đến qua các phương tiện truyền thông.

Từ năm 2003 đến 2005, UNICEF (Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc) cùng với CPFC (tổ chức bảo vệ trẻ em Thụy Điển và kế hoạch quốc tế) đã làm nhiều nghiên cứu về bạo hành đối với trẻ em ở Việt Nam. Một trong số các nghiên cứu đó là khả sát trên 2800 trẻ em ở ba tỉnh An Giang, Lào Cai và Hà Nội. Kết quả cho thấy rằng, bạo hành trẻ em ở gia đình và nhà trường rất phổ biến tại Việt Nam.

Các tổ chức này đã công bố số liệu nghiên cứu mới nhất về “Trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em tại Việt Nam” được thực hiện bằng cách khảo sát ý kiến 499 trẻ em và 306 người lớn. Kết quả cho thấy có 94% trẻ tham gia khảo sát cho biết bị phạt thân thể và tinh thần tại nhà; 93% trẻ em cho biết bị phạt ở trường. Hình phạt nhẹ là bị mắng chửi, nặng là bị đánh vào cánh tay, bàn tay, vào mông. Ngoài ra còn nhiều loại hình phạt không roi vọt như đứng im ngoài trời, úp mặt vào tường, đuổi ra khỏi lớp, bị phạt quỳ.

Như vậy, bạo hành trẻ em thời nào cũng vậy, có khác gì đâu. Hơn 30 năm trước, chúng tôi cũng bị đòn như các cháu bây giờ. Về tình hình đáng buồn trong giáo dục này, ông Phó Cục trưởng Cục Nhà giáo (Bộ GD-ĐT) Trương Đình Mậu thừa nhận rằng “gần đây, tình hình bạo hành học đường xảy ra ngày càng phổ biến; không chỉ riêng mầm non mà cả ở phổ thông. Qua thu thập ý kiến, cũng có luồng cho rằng, bạo hành bắt nguồn từ áp lực công việc: chỉ tiêu giờ lên lớp đều "đội" lên nhưng chế độ đãi ngộ thấp.” Tôi không nghĩ đó là nguyên nhân chính của việc dùng hình phạt làm tổn thương đến thể xác cũng như tinh thần các em như thế. Đây là vấn đề thiếu chuyên môn sư phạm của thầy cô giáo, là đạo đức nghề nghiệp yếu kém của những người làm công tác sư phạm. Cá thầy cô đứng lớp có biết rằng, nhân cách căn bản của con người định hình trong những năm đầu đời của trẻ và thầy cô giáo là người có trách nhiệm định hướng và tác động lớn đến quá trình hình thành và nhân cách cho các em không? Tôi thấy đây không chỉ là vấn đề đạo đức của người thầy mà liên quan đến chuyện rèn luyện kỹ năng sống của mỗi người trong xã hội chúng ta. Nếu cứ dùng hình phạt như thế rồi đổ lỗi áp lực này, áp lực nọ, thì làm sao có thể trang bị cho các em kiến thức và kỹ năng sống vững vàng đây?!

Wednesday, December 10, 2008

Tình ca (Phạm Duy-Thái Thanh)


Tỉ lệ bỏ học chỉ có 1%: Ai mà tin được? (đọc báo)

Hôm nay, đọc báo, thấy tác giả bài này DÁM nghi ngờ Bộ Giáo dục (Ông dám viết: 'ai mà tin')!!! E rằng nội dung này sẽ không còn trong nay mai, xin về đây làm tài liệu vì có vài con số thông kê 'thật' và 'ảo' trong bài viết.


http://vietnamnet.vn/giaoduc/2008/12/817781/
06:44' 10/12/2008 (GMT+7)


- Ngành giáo dục đang chú ý đến khảo thí và kiểm định chất lượng, song cũng cần phải kiểm định số lượng sao cho chính xác minh bạch để có được sự nhất trí tin tưởng của cả xã hội và quốc tế. Nếu tuyên bố tỉ lệ bỏ học dưới 1% thì có nghĩa là tỉ lệ bỏ học ở nước ta gần bằng tỷ lệ của Singapore. Điều này khó mà tin được!
"Khất" chiến lược giáo dục do thống kê chưa chính xác
Ngành giáo dục đang nợ một lời giải thích
Xóa mù chữ cho người trên 36 tuổi chẳng để làm gì?
Điều chưa nói từ con số thống kê mù chữ


0,94%: chưa rõ ràng!

Sau giờ học các em học sinh THCS xã Tân Hùng - Tiểu Cần, Trà Vinh đi câu cá để giúp gia đình giảm tiền mua thức ăn hằng ngày. Ảnh: Vĩnh TràTháng 3/2008, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển khẳng định: hiện tượng bỏ học năm nào cũng có, nhưng năm nay số học sinh bỏ học có chiều hướng gia tăng đột biến. Tuy nhiên, đến ngày họp báo thường kỳ trong tháng, Bộ lại đưa ra số liệu tỉ lệ HS bỏ học rất thấp so với năm trước. THCS bỏ học giảm 5 lần và tiểu học bỏ học giảm 20 lần.
Hội nghị tổng kết năm học 2007 - 2008 và triển khai nhiệm vụ năm học 2008 - 2009 tại Hải Phòng, Bộ GD-ĐT cho biết, chưa có số liệu thống kê để nói Việt Nam so với các nước khác số bỏ học khá cao.


Ngày 12/11/2008, trên báo Hà Nội Mới, với câu hỏi "Trên thực tế, con số học sinh bỏ học là bao nhiêu" Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển trả lời: Cụ thể năm 2006 là 0,92%, năm 2007 là 0,9%, năm 2008 là 0,94%, tương ứng với khoảng 150.000 HS bỏ học trong tổng số 16 triệu HS các cấp.


Theo tôi, câu trả lời này chưa rõ ràng ở 2 điểm:


Thứ nhất, tỷ lệ HS bỏ học từ trước đến nay tính theo năm học chứ không phải tính theo năm lịch. Thứ hai, nếu tính theo năm lịch thì còn 2 tháng nữa mới hết năm 2008, mà Bộ đã biết trước tỉ lệ HS bỏ học là 0,94%?


1%: Quá thấp!

Lớp học vắng vì nhiều học sinh đã bỏ học!Trong khi Bộ đánh giá tình hình bỏ học quá lạc quan như vậy thì các Giám đốc Sở GD-ĐT nói gì?


Bà Nguyễn Thị Anh Phương, Giám đốc Sở GD-ĐT Lâm Đồng nhận định: Tình trạng học sinh bỏ học ngày càng nhiều ở nơi này (Tây Nguyên) đang là nỗi lo cho ngành giáo dục và các đơn vị trường học. Đa số học sinh bỏ học là người dân tộc thiểu số và những em có học lực quá yếu.


Ngày 24/11, hội nghị giao ban lần thứ nhất năm học 2008 - 2009 bao gồm 12 Sở GD-ĐT khu vực đồng bằng sông Cửu Long thì tỉ lệ HS bỏ học đầu năm học này tại các tỉnh còn khá cao. Các tỉnh có tỷ lệ bỏ học cao ở cả 3 cấp học là Cà Mau 18,67%, An Giang: 14,34%, Bạc Liêu 13,23%, Hậu Giang: 10,19%. Nguyên nhân tỉ lệ HS yếu kém không theo kịp chương trình phải bỏ học là 40%.


Ông Nguyễn Văn Quang, Giám đốc Sở GD-ĐT Vĩnh Long thừa nhận: Căn cứ vào số liệu hàng năm, tỉ lệ bỏ học chiếm khoảng 6% trong khi năm nay, chỉ mới thống kê ở những tháng đầu năm học đã chiếm 4,43% chắc chắn đến cuối năm, thống kê con số này sẽ còn tăng lên nữa. Chúng tôi đã làm quyết liệt nhưng không thể rút nhỏ lại con số này được. Xin nói thêm, Vĩnh Long là một tỉnh giáo dục đào tạo phát triển cao ở ĐBSCL.


Căn cứ vào thực tiễn của tình trạng HS bỏ học hiện nay và căn cứ vào thống kê về tỉ lệ HS bỏ học mấy chục năm qua, tôi thấy rằng Bộ công bố tỉ lệ HS bỏ học các cấp dưới 1% là quá thấp, không đúng với thực trạng giáo dục hiện nay.


Điều này trái với nhận định của nhiều địa phương, của nhiều cán bộ giáo viên trong ngành và báo chí quan tâm tới giáo dục.


Ví du, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Kế Hào, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học cũng đã viết: "mỗi năm nước ta có 1,2 triệu HS bỏ học". Tôi cũng đồng thuận với ý kiến này, đánh giá của bà giám đốc Sở GD-ĐT Lâm Đồng và của ông giám đốc Sở GD-ĐT Vĩnh Long... đã nêu ở trên và xin dẫn chứng thêm vài điểm sau:


Chưa năm nào dưới 5%


1. Theo dõi tình hình HS bỏ học mấy chục năm qua thì chưa có năm nào nước ta có tỉ lệ HS bỏ học dưới 5%. Vì khuôn khổ của bài viết, tôi chỉ xin nêu vài dẫn chứng sau: Cách đây 10 năm, năm học 1996 - 1997: tỷ lệ HS bỏ học bậc tiểu học là 6,42%, cấp THCS là 8,08%, cấp THPT là 4,81%.


Năm học 1999 - 2000, tỉ lệ HS bỏ học ở tiểu học là 4,67%. Đây là năm học hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đạt chuẩn quốc gia nên có tỉ lệ HS bỏ học thấp, số HS đến trường đạt cao nhất trong những năm qua (10.063.025 học sinh), tỉ lệ HS bỏ học ở cấp THCS là 8,51%, ở cấp THPT là 7,68%.


Cũng theo thống kê của Bộ, tỉ lệ HS trung học bỏ học năm 2003 - 2004 là 6,29%, năm học 2004 - 2005 là 7,59%, năm học 2005 - 2006 là 6,59%. Tính trung bình hơn 10 năm học quả, tỉ lệ bỏ học của HS tiểu học là khoảng 5%, THCS là 8,5%, THPT là gần 4%. Như vậy, số HS bỏ học hàng năm trên dưới 1 triệu em.


2. Nếu tỉ lệ HS bỏ học giảm một cách đột biến như Bộ công báo thì số HS tới trường phải tăng lên. Nhưng mấy năm qua, số HS tiểu học giảm 3 triệu em, số HS THCS cũng liên tục giảm gần 1 triệu em. Cụ thể, số HS THCS 2004-2005 có 6792000 HS, năm học 2007-2008 còn 5740000 học sinh. Số HS THPT cũng bắt đầu giảm. Cụ thể, năm học 2006 - 2007 có 3111280 học sinh, năm học 2007-2008 còn 3052620, giảm 58660 học sinh. Người ta có thể giải thích số học sinh giảm là do kết của phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, nhưng cả nước đã phổ cập đúng độ tuổi đâu? Còn ở các tỉnh giáo dục phát triển thì số HS đi học đúng và gần đúng độ tuổi đã đạt từ lâu rồi. Mặt khác, giả sử 100% HS 6 tuổi đều đến lớp 1 và sau 5 năm đều lên lớp 5 đúng độ tuổi 100% thì số HS tiểu học cũng là 7 triệu (vào lớp 1: 1,4 triệu, lên lớp 5: 1,5 triệu; 1,4 triệu x5 = 7 triệu). Còn THCS đang trong giai đoạn nước rút hoàn thành phổ cập vào năm 2010 mà tại sao số HS lại giảm? THCS đã phổ cập giáo dục đúng độ tuổi đâu.


Tóm lại, số HS giảm chỉ có thể giải thích với lý do chủ yếu là tỉ lệ HS bỏ học ở các cấp còn cao hơn như các thống kê giáo dục của Bộ đã có hàng chục năm qua. Mặt khác, còn nhiều em đang ở độ tuổi học mà chưa đến trường như UNESCO vừa đưa ra con số 1 triệu trẻ "ở ngoài nhà trường".


Ngành ta đang chú ý đến khảo thí và kiểm định chất lượng, song cũng cần phải kiểm định số lượng sao cho chính xác minh bạch để có được sự nhất trí tin tưởng của cả xã hội và quốc tế nếu tuyên bố tỉ lệ bỏ học dưới 1% thì có nghĩa là tỉ lệ bỏ học ở nước ta gần bằng tỷ lệ của Singapore. Điều đó "hổng dám đâu"! Quan trọng hơn là có đánh giá đúng mới có quyết tâm cao và biện pháp đúng để giữ vững và phát triển quy mô giáo dục phổ thông trong thời gian tới.


Nhà giáo Trần Hữu Trù (nguyên chuyên viên cao cấp, Bộ GD-ĐT)

TIN LIÊN QUAN

UNESCO đính chính thông tin HS Việt Nam bỏ học

Nguy cơ bỏ học ở vùng lũ Tây Bắc tăng cao

Trẻ nghèo bỏ học vì tiền không đến đúng đối tượng

Khi nhà giàu “bỏ học”

Số liệu mới nhất: Hơn 147.000 học sinh bỏ học

Kỳ 4: Bỏ học… đi ăn xin

Nghệ An: Học sinh bỏ học sẽ tăng!

Bộ GD-ĐT nói gì về thống kê bỏ học "vênh" thực tế?

Pu Sam Cáp "mùa bỏ học"

Cô không bỏ trò, trò đừng bỏ học

3 điều “kỳ lạ” trong bản thống kê HS bỏ học

SOS: Tình trạng học sinh bỏ học ở ĐBSCL

Bỏ học hàng loạt không hẳn vì khó khăn

Sao lại phạt học sinh nghèo bỏ học?