Liên Trí
(Bài trình
bày tại Hội thảo “Vùng ASEAN và Nam Á: Nơi giao hòa của văn hóa và tôn giáo ở
Đông Nam” Á- 9-11/7/2017)
1. Sự hòa quyện giữa hoa sen và ngọn đèn trong Phật giáo
Ngày nay, biểu tượng hoa sen
và ánh sáng quyện vào nhau trong văn hóa Phật giáo. Trong các buổi lễ, thả hoa
đăng và đốt nến cầu nguyện trở thành một trong những cách thể hiện tâm nguyện
yêu chuộng hòa bình, phồn vinh, hạnh phúc của người con Phật tại các nước Châu
Á là điều thường thấy.
Ở Hàn Quốc, vào ngày Phật đản,
hàng vạn người Phật tử nô nức ra đường tham gia lễ hội “Yeon Deung Hoe” (Lễ rước
lồng đèn hoa sen) với ý niệm khơi dậy tinh thần trí tuệ và từ bi của đạo Phật. Người
người nô nức tham gia rước đèn với niềm tin rằng, ánh sáng từ đèn hoa sen tượng trưng cho
ánh sáng giác ngộ của đức Phật soi rọi vào cõi ô trược của thế gian này.
Ở những nước Đông Nam Á có nền văn
hóa lúa nước, cuộc sống gắn liền với sông nước và thiên nhiên, truyền thống thả
phóng hoa đăng nhằm cảm ơn thần nước đã hộ trì cho dân chúng bình an, đồng thời
dâng lên chư thần lời cầu nguyện những gì tốt đẹp, an lành nhất trong cuộc sống,
tồn tại lâu đời cho đến ngày nay. Ở Thái Lan, lễ hội Loy krathong (hoa đăng) diễn
ra trên toàn quốc vào ngày rằm tháng 12 (theo lịch Thái Lan – khoảng tháng 11
dương lịch), còn ở Việt Nam, lễ hội hoa đăng cũng có từ lâu đời trong văn hóa
dân tộc. Người ta thường thả đèn hoa sen xuống dòng sông thường gởi theo lời cầu
nguyện mọi điều tốt đẹp, an lành đến với họ và gia đình. Đây là sự kết hợp giữa
ánh sáng và hoa sen trong nền văn hóa thấm đượm tinh thần Phật giáo ở Thái Lan
và Việt Nam.
Nhiều chùa chọn hệ thống đèn
trang trí có hình dáng ngọn đuốc có hoa văn sen bao quanh trụ trông thật trang
nghiêm, hài hòa và đẹp mắt. Biểu tượng kết hợp giữa hoa sen và ánh sáng cụ thể
hóa bằng ngọn đèn là những hình ảnh quen thuộc, trang nghiêm chứa đựng ý nghĩa
trí tuệ và thanh tịnh xuất hiện rất phổ biến trong văn hóa Phật giáo, các loại
đèn hoa sen cúng Phật là một ví dụ cụ thể.
2. Biểu tượng hoa sen và ngọn đèn trong Phật giáo Khất sĩ
Đạo Phật Khất sĩ, một thành
viên trong ngôi nhà Phật giáo Việt Nam, không là ngoại lệ. Đức Tổ
sư Minh Đăng Quang đã thể hiện tâm nguyện đem chánh pháp
thanh tịnh có khả năng đưa đến giác ngộ của chư Phật qua hình tượng
vô nhiễm của hoa sen để soi đường dẫn lối cho người hữu duyên tìm đường về
bến giác qua hình tượng ngọn đèn chơn lý. Với ý nghĩa
đó, Ngài chọn “hoa sen” và “ngọn đèn” làm biểu tượng
cho dòng pháp “Nối Truyền Thích Ca Chánh Pháp – Đạo Phật Khất Sĩ
Việt Nam”, nay là Hệ phái Khất sĩ.
Tư tưởng chủ đạo của đức Tổ sư
được trình bày trong bộ Chơn Lý – kho tàng Pháp bảo Ngài để lại cho đời. Bàng bạc
ở các bài Chơn Lý, đức Tổ sư dùng hình ảnh
hoa sen với ý nghĩa thanh tịnh, vô nhiễm. Ngài nhận trách nhiệm giáo hóa
người là in dấu hoa sen thanh tịnh, không ô nhiễm vào tâm trí họ, để đánh thức
tánh thiện lành, mầm sen nơi mỗi con người. Ngài dạy “Khất sĩ cảm hóa kẻ ác, dạy dỗ người thiện, để dấu hoa
sen không ô nhiễm vào nơi trí óc tâm người, vạch hàng chữ đạo nơi cửa
ngõ đường đi, khoe sự tốt đẹp của giới hạnh, nhắc nhở sự yên úy đến
cho người”
(Chơn
Lý – Khất sĩ, tr.150). Để cụ thể hơn và thiết thực hơn trên phương diện
hành trì để thanh tịnh hóa tự thân, đức Tổ sư dùng hình ảnh hoa sen để chỉ cho
ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh. Ngài dạy “Lời nói của người tu ví như hoa sen, việc làm của người tu ví
như lá sen, ý niệm của người tu ví như gương sen. Cả thảy các pháp đều ở
trên cao không trung, và không còn phải ô nhiễm nước bùn theo thế sự”
(Chơn
Lý – Trên mặt nước, tr. 259).
Hoặc:
Thân cùng
khẩu ý trọn lành
Xa lìa tội lỗi gần cành hoa sen (Chơn Lý – Bài học cư sĩ, tr.
209)
Đức Tổ sư dùng hình ảnh hoa sen chỉ cho sự toàn thiện, viên mãn từ bi và trí tuệ ở
người thực hành pháp. Ngài viết “Đời
sống của hoa sen, lá sen, quả sen thật là từ bi và trí huệ, sống trong
khoảng không trung bao quát mà không
thiếu phần ích lợi cho cả chúng
sanh phía dưới. Thế sao chúng ta lại chẳng
noi gương theo?” (Chơn Lý – Trên mặt nước, tr.
268). Hơn thế nữa, đức Tổ sư đặt trách nhiệm cho người xuất gia là giáo
hóa, dạy dỗ người khác cùng tiến hóa trên con đường thực hành pháp. Ngài nói
người xuất gia phải làm cho người khác tỉnh ngộ, chuyển hóa tâm tánh, ví như cọng
sen phải có bổn phận nâng đỡ lá, trái và bông sen. “Sự việc của người tu là giáo hóa dạy dỗ chúng sanh, cũng như lá
trái sen phải ở nơi cọng sen, bông hoa sen ở nơi cọng sen” (Chơn
Lý – Trên mặt nước, tr. 268).
Bằng ngôn ngữ bình dân, đức Tổ sư giải
thích ẩn dụ hoa sen trong kinh “Pháp Hoa” rằng “Diệu Pháp Liên Hoa mà đức Phật nói ra đây là ý Ngài muốn chỉ rõ
sự bình đẳng, sự bằng thẳng trong sạch của đời. Đời là một cái mặt
hoa sen, nâng đỡ chứa đựng tất cả chúng sanh ngồi trên; nó không cho ai
tham lam, cố chấp, nhiễm ô bùn bụi”(Chơn Lý – Pháp Hoa, tr. 636).
Cùng trên ý tưởng này, bên cạnh giáo
hội Tăng già, đức Tổ sư thành lập giáo hội Ni giới Khất sĩ, Ni trưởng Huỳnh
Liên đứng đầu, lấy tên là “giáo hội Liên Hoa” trong đó, pháp danh của chư Ni Khất
sĩ đều có chữ “Liên” (sen), với ý niệm đây là một hồ sen, nâng đỡ, chứa đựng tất
cả chư Ni ngồi trên đó, để cùng nhau thực hành pháp, cùng vươn lên khỏi sự ô uế
của bùn nhơ thế tục.
Bên cạnh biểu tượng hoa sen, hình ảnh
ngọn đèn có ý nghĩa vô cùng thâm thúy và là hình ảnh quen thuộc trong Phật giáo
Khất sĩ. Đức Tổ sư ví giáo pháp của đức Phật là Chơn lý muôn đời, là ánh sáng mặt
trời tràn ngập khắp mọi nơi. “Pháp là
giáo lý ánh sáng của trí huệ, của thức trí, của trí si” (Chơn
Lý – Pháp chánh giác, tr. 655). Nhiệm vụ của người xuất gia Khất sĩ là
thâu nhận ánh sáng từ mặt trời và làm ngọn đèn rọi đường cho mình và tha nhân
nương theo để cùng tu tập và tiến hóa. Ngài viết “Khất sĩ là nhựt nguyệt tinh quang, là ánh sáng giữa đêm trời tối để chỉ dắt người ra khỏi cảnh rừng nguy” (Chơn Lý – Đạo Phật Khất sĩ, tr. 732).
Nếp sống chung bình đẳng là mô hình lý tưởng mà đức Tổ sư nỗ lực xây dựng trong
cộng đồng đệ tử xuất gia của Ngài. Ngài viết “Giáo lý Khất sĩ là con đường sáng của nhựt nguyệt tinh quang,
là ánh sáng để chỉ rõ con đường trong sạch giải thoát, là hạnh phúc quý
báu của sự sống chung tu học, yên vui, tiến hóa, là cảnh sáng giữa ban
ngày” (Chơn Lý – Đạo Phật Khất sĩ, tr. 734)
Giữa lúc đất nước chiến tranh, Tăng
Ni chia rẽ, niềm tin Phật tử lung lay vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, đức
Tổ sư thành lập đạo Phật Khất sĩ và tự nhận cho mình sứ mạng đốt đuốc giữa đêm
thâu. Ngài viết “Giáo pháp Khất sĩ đến
Sài Gòn năm 1948,
ánh sáng của lá y vàng phất
phơ thổi mạnh
làm bật tung cánh cửa các ngôi chùa tông giáo, kêu gọi Tăng
chúng tản cư khắp xứ, kéo nhau quay
về kỷ luật” (Chơn Lý – Đạo Phật Khất sĩ, tr. 732).
Biểu tượng “ngọn đèn” là phương châm sống, là tôn chỉ của một người xuất gia Khất
sĩ: xin để cho, học để dạy trong mối quan hệ tương duyên nhau trong cuộc sống,
nương nhau để cùng tồn tại và tiến hóa. “Cái
sống của Khất sĩ là đang vay của tất cả chúng sanh vạn vật các pháp,
vay xin từ vô thỉ đến bây giờ, cho đến sau
này khi đạt thành chánh đẳng chánh giác, chừng ấy mới sẽ đem giáo
lý ánh sáng trả lại ơn người”
(Chơn
Lý – Đạo Phật Khất sĩ, tr. 733)
Ngài khuyến tấn mỗi người xuất gia khất
sĩ cần phải học thấu đáo, thâm nhập pháp lý, mới có thể nhận nguồn sáng từ mặt
trời mới có thể làm ngọn đèn để soi rọi thế gian tăm tối. “Chơn lý như mặt trời, pháp lý như đèn sao, thế sự như hang tối. Vậy nên cái
học của chúng ta là học chơn lý, thấu chơn lý mới gọi là thật học” (Chơn
Lý – Học chơn lý, tr. 256). Với ý nghĩa tương tự, ở một bài Chơn lý
khác, Ngài viết “tên Phổ Quang Phật là
phổ tế ánh sáng giác ngộ cho chúng sanh” (Chơn Lý – Sám hối, tr. 679).
Đức Tổ sư nhìn thấy ánh sáng của chơn
như là mặt trời. Một khi sự tu học rốt ráo, thấu nhập bản chất của vạn pháp thì
không còn phân biệt gì nữa. “Chơn như là
chánh pháp, chánh lý, đạo tâm của chúng sanh, hay đạo tâm ấy là đạo Phật.
Vậy thì những ai tu học chơn như, tức là tu học với tất cả vạn pháp
rồi. Bởi vạn pháp là ánh sáng của chơn như túa ra, mà người đã đến
chơn như, ấy là vạn pháp đã ở nơi
mình, tự mình túa ra, chớ không còn nương theo vạn pháp. Hiểu như thế
là chơn như rất quý báu, vì đi theo bao nhiêu ánh sáng là cũng chỉ có
đến một mặt trời chơn như đây thôi” (Chơn Lý – Chơn như, tr. 792).
Vài nét phác họa ở trên cho
chúng ta thấy, ý nghĩa tổng hợp từ biểu tượng hoa sen và ngọn đèn hàm chứa trọn
vẹn hạnh nguyện độ sanh của đức Tổ sư và tôn chỉ hành trì của
đạo Phật Khất sĩ. Hoa sen xin nhận dưỡng chất từ đất bùn và nước, ngọn đèn xin nhận
ánh sáng từ mặt trời. Tất cả những điều xin nhận đó cũng có nghĩa là sự học hỏi, đúng nghĩa
của từ “Khất sĩ” – người học trò đi
xin! Được sinh ra từ bùn nhơ, sen vươn lên khỏi mặt nước và trổ hoa
tỏa hương khoe sắc cho đời mà không bị bùn làm ô nhiễm. Người khất
sĩ sống trong trần cũng giống như vậy. Sen một khi vượt thoát khỏi bùn
và tỏa hương ngào ngạt là lúc người Khất sĩ vững chãi về phần “tự độ”, vượt
thoát trần thế trược ô trên con đường nhập thế tích cực để hoàn thiện sứ mạng của
người con Phật về phần “độ tha” vậy.
Ngọn đèn đem ánh
sáng soi rọi vào nơi tăm tối là để thể hiện tinh thần biết ơn, nhớ ơn và đền
ơn chúng sanh muôn loại. Ngọn đèn tỏa sáng là lúc người
Khất sĩ đem cái hiểu, cái tu dạy lại cho đời trong tinh thần vô nhiễm, từ đó
đem lại sự bình an, lợi lạc cho người, cho môi trường xung quanh. Triết lý xin
và cho, học và dạy là tư tưởng chủ đạo của đức Tổ sư và là sự hành trì xuyên suốt
của mỗi người Khất sĩ được gói gọn qua hình tượng thâm thúy này. Trí tuệ và vô
nhiễm là hai yếu tố vô cùng cần thiết cho người thực hành nếp sống Tứ y pháp:
pháp hành căn bản và đặc trưng của đạo Phật Khất sĩ.
Khất thực không nài vật uống ăn
Mặc y phấn tảo hạnh thanh bần
Tàng cây, nhà vắng tu Thiền quán
Rễ lá sơ sài dụng thuốc thang (NT.
Huỳnh Liên)
Khi đức Tổ sư còn hành đạo,
trên đường du hóa, đi đến đâu, Ngài thường phổ biến những bài Chơn Lý đã viết đến
quần chúng Phật tử. Trên những ấn phẩm đầu tiên này, biểu tượng hoa sen có ngọn
đèn ở giữa xuất hiện trên bìa các tập Chơn Lý. Điều này chứng tỏ hình ảnh hoa
sen có ngọn đèn ở giữa được đức Tổ sư chọn làm biểu tượng cho giáo pháp của
Ngài ngay từ những ngày đầu thành lập đoàn Du Tăng Khất sĩ. Từ đó, biểu tượng
này trở thành “nhãn hiệu” duy nhất được sử dụng trên bộ Chơn Lý cũng như các ấn
phẩm văn hóa khác của Phật giáo Khất sĩ.
Bên cạnh đó, logo
trang mạng của Khất sĩ cũng dùng biểu tượng này.
Thời đức Tổ sư hành đạo, Tịnh
xá được làm bằng tre lá đơn sơ nên biểu tượng hoa sen và ngọn đèn chưa có cơ hội
đưa vào kiến trúc hội họa. Theo xu hướng phát triển chung cùng xã hội, các ngôi
Tịnh xá ngày càng được xây dựng quy mô hơn. Từ đó, hoa sen và ngọn đèn là
motif chủ đạo trong kiến trúc và trang trí các ngôi Tịnh xá.
Biểu tượng hoa sen và ngọn đèn được chọn làm biểu tượng
đắp trên nóc các Tịnh xá,
trên trụ cổng, trên những khung
hoa văn cổng và trên những bức phù điêu tường thành mà chúng ta thường
thấy ở các ngôi Tịnh xá.
Như vậy, biểu tượng hoa
sen và ngọn đèn được đức Tổ
sư vận dụng một cách sáng tạo và hài hòa làm biểu tượng đặc trưng cho hệ phái
Khất sĩ. Ý nghĩa của hai hình ảnh này nhắc người xuất gia phải thể
hiện một đời sống tu tập trong sáng, thanh thoát, thắp lên ngọn đèn chơn lý, ngọn đèn
pháp hiến tặng cho đời mà vẫn thong dong sống đời vô nhiễm. Biểu
tượng này là một di sản quý giá mà chư Tăng Ni hệ
phái Khất sĩ được thừa hưởng, giữ gìn và phát
huy trong đời sống thực tế của mình để đem đạo vào đời một cách hiệu quả.
Hình ảnh hoa
sen và ngọn đèn trong biểu tượng đặc trưng của Hệ phái Khất sĩ là một
sự tổng hòa, dung hợp những ý nghĩa tâm linh đã có từ trong nếp sống văn hóa
trên đất nước Ấn Độ - nơi đạo Phật được hình thành, cũng như các nước trong khu
vực, và nhất là trong kinh điển Phật giáo. Đây chính là lý tưởng và hoài
bão của đức Tổ Sư về một quốc độ, một cuộc sống an vui, thuần thiện của
tất cả mọi người. Trong đó, người xuất gia phải thể hiện một đời sống tu
tập trong sáng, thanh thoát, thắp lên ngọn đèn chơn
lý phụng hiến cho đời. Đây là cách mỗi người Khất sĩ phụng thờ
chánh pháp một cách tốt đẹp nhất. Biểu tượng này thể hiện chủ trương của đức Tổ sư rằng tất cả
mỗi người phải tự là ngọn đèn của chính mình, tự mình tìm đến chân
lý, tự soi đường chính mình, đồng thời thực hiện hạnh nguyện giáo hoá người
khác, như lời Đức Phật đã từng dạy: “tự giác, giác
tha, giác hạnh viên mãn”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kinh Pháp cú. H.T. Thích Minh Châu dịch.
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1997.
Kinh Tăng chi bộ. H.T. Thích Minh Châu dịch.
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1996.
Kinh Tập. H.T. Thích Minh Châu dịch. Tu thư Phật học Vạn Hạnh
ấn hành, 1982.
Kinh Trung bộ. H.T. Thích Minh Châu dịch. Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1997.
Kinh Trường bộ. H.T. Thích Minh Châu dịch.
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1991.
Kinh Tương ưng bộ. H.T. Thích Minh Châu dịch. Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam ấn hành, 1997.
Siddiqui, Kiran Shahid. Significance of Lotus Depiction in the
Gandhara Art. Pakistan Historical Society. Journal of the Pakistan Historical
Society, 60 (3), 2012.
Swami Vivekananda. Work
and Its Secret. Kolkata: Advaita Ashrama
publication, 2011.
Tổ Sư Minh Đăng Quang. Chơn Lý. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh,
1952-53/2016.