Saturday, November 8, 2008

Jarvis - quy y trở thành Phật tử trong nhà tù

Giới thiệu: Jarvis Jay Masters, một người da đen, sinh năm 1962 tại Long Beach, California, trong gia đình có 7 anh chi em. Bà Cynthia, mẹ của Jarvis là nghiện ma túy nên cả bảy người con của bà bị phân chia để sống trong các nhà tình thương của chương trình an sinh xã hội chính phủ. Cả cha của Jarvis bỏ nhà đi khi Jarvis mới vừa lên 5 và sau đó cũng thành người nghiện. Từ bé, khi chưa đầy 5 tuổi, Jarvis chứng kiến những bạo hành và lộn xộn mà sau này, Jarvis viết trong các tác phẩm của mình như ) "Me and My Sisters" and "Scars" in Finding Freedom: Writings from Death Row.Từ đó, Jarvis, ngoài thời gian ngắn sống với người cô, đã phải sống từ nhà tình thương này sang nhà tình thương khác, xa cách anh chị em. Nhiều năm, Jarvis sống với vợ chồng một gia đình nọ mà cậu bé rất yêu thương. Thế nhưng, khi hai vợ chồng này già quá, cậu lại phải ra đi, lúc ấy mới 9 tuổi. Thế là Jarvis tiếp tục cuộc sống ở các nhà tình thương. Hoàn cảnh đầy bất hạnh bi đát của gia đình và những cám dỗ tiêu cực ngoài xã hội đã đẩy Jarvis, dù chỉ mới 12 tuổi, đã nhiều lần vào tù ra khám. Khi đến tuổi 17, Jarvis là một thanh niên hung tợn, dữ dằn. Dù chưa tự tay giết chết ai nhưng Jarvis đã từng nhiều lần dùng súng để uy hiếp và đánh cướp các nhà hàng và cửa tiệm. Năm 1981, Jarvis, lúc bấy giờ 19 tuổi, lại vào nhà tù San Quentin ở California, sau khi bị kết án trộm cướp có vũ khí. Trong nhà tù anh lại tham gia băng đảng.
Năm 1985, Trung sĩ quản lý trại tù Hal Dean Burchfield bị đâm chết trên tầng hai của nhà tù San Quentin. Ba tù nhân bị bắt và bị xử về tội giết người. Andre Johnson bị xử về tội trực tiếp giết người, Lawrence Woodard bị xử về tội ra lệnh giết và Javis Masters bị kết án với tội danh là cung cấp vũ khí, đó là thanh sắt đã mài nhọn được dùng để đâm Trung Sĩ Hal Dean Burchfield. Trong thời gian án mạng xảy ra, Jarvis đang bị giam trên tầng thứ tư của nhà giam. Cả ba tù nhân đều có thể bị kết án tử hình. Kết quả vụ án, Lawrence Woodard và Andre Johnson bị kết án chung thân không được giảm án nhưng Jarvis, dù không có mặt, lại bị kết án tử hình vì một quá khứ đầy những tiền án tiền sự của anh từ những ngày còn bé cho đến năm 19 tuổi.
Jarvis Master bị chuyển sang khu dành cho tù nhân chờ thọ án tử hình từ 1990. Từ đó, các luật sư của anh đã tiến hành thủ tục kháng án. Tháng 2 năm 2007, Pháp Viện tối cao California chấp nhận xét đơn thỉnh nguyện của nhóm luật sư biện hộ cho Jarvis. Ngày 11 tháng tư năm 2008 mới đây, Pháp Viện tối cao California đã ra lệnh tiến hành thủ tục điều trần về bằng chứng của vụ án Trung Sĩ Burchfield. Những người ủng hộ Jarvis tin rằng anh ta sau 17 năm trong khu tử tội (Death Row) cuối cùng sẽ được trắng án hay ít nhất giảm án, tuy nhiên quyết định vẫn thuộc về pháp viện tối cao, và cho đến nay các buổi điều trần vẫn chưa đem lại kết quả chính thức nào.
Trong tù, Jarvis tìm hiểu về tôn giáo và cảm thấy đạo Phật đã đem lại cho anh sự an lạc mà từ lúc sinh ra đen giờ anh chưa từng có được. Năm 1989 (có tài liệu cho rằng năm 1991), Jarvis phát nguyện trở thành một Phật tử theo truyền thống Tây Tạng khi có duyên gặp Lama Chagdud Tulku ngay tại nhà tù. Lama Chagdud Tulku là một đại sư Tây Tạng nổi tiếng tại Tây Phương, được công nhận là vị lama tái sanh lần thứ 14 của Lama Chagdud. Lama Chagdud Tulku hoằng pháp khắp các nước Tây phương, từ châu Âu sang châu Mỹ cho đến khi ngài viên tịch vào năm 2002.
Đồng thời với việc trở thành Phật Tử, Jarvis Master cũng trở thành một nhà văn. Trong lúc xã hội dạy anh “Trộm cướp có vũ khí ”, “Tham gia băng đảng”, tinh thần Phật giáo đã khơi dậy trong anh tấm lòng bao dung, thương xót, tình yêu trong con người vốn thiện lành của anh. Câu chuyện “Joe Bob lắng nghe” ( Joe Bob Listens) được đăng tải trên tạp chí Turning Wheel, số mùa Thu 1995 . Trong tác phẩm “Tìm Tự Do” (Finding Freedoom), Jarvis kể ai những khoảng đời bất hạnh và khốn khó trong thuở thiếu thời đầy thương đau của mình. Jarvis ngày nay không còn là một thanh niên giận giữ như thuở anh mới bước vào nhà tù San Quentin 27 năm trước nhưng là tác giả được nhiều người yêu mến, kính trọng, và như một Phật tử, anh dâng hiến khả năng của mình để xiển dương tinh thần bất bạo động trong nhà tù.
Câu chuyện sau đây về lễ Thọ Giới (Empowerment ceremony) của Jarvis theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng được kể lại trong nhiều phần. Phần đầu do Melody Ermachild, một Phật tử, thành viên trong đội pháp lý quản lý Jarvis, cũng là người đã sắp xếp cho Lama Chagdud Tulku viếng thăm nhà tù. Phần thứ hai là lời kể của chính Jarvis, phần cuối cùng là đoạn trích bài pháp thoại của Lama Chagdud Tulku trong buổi lễ thọ giới qua lời kể của Melody Ermachild.
Lễ Thọ Giới cho Jarvin (Melody Ermachild)
Khi tôi nhận được tin Đại Sư Chagdud Tulku có thể đến nhà tù San Quentin để làm lễ Thọ Giới cho Jarvis Masters, một trong những người tù tôi quản lý, tôi vội đến báo cho anh ta biết để chuẩn bị, đức Lama có thể sẽ vào ngày mai.
Phản ứng đầu tiên của Jarvis là lo sợ. Anh ta muốn tôi gọi để hủy kế hoạch thọ giới này. Anh nghĩ mình không xứng đáng để nhận giới pháp nhà Phật. Tôi nói với Jarvis nếu quả thật anh không xứng đáng để thọ giới, không xứng đáng là con người thì chắc hẳn không có vị Lama Tây Tạng nào muốn đến gặp anh cả. Anh nên bình thản và để cơ hội tốt đẹp đến với mình. Thọ giới sẽ đem lại kết quả tốt đẹp hơn cho anh. Việc nghĩ mình không xứng đáng có thể là một điều tốt vì buổi lễ này liên quan đến việc sám hối về những tội lỗi mình đã gây tạo từ trước. Lo sợ là điều tốt, ai cũng vậy thôi. Lo sợ cho thấy anh xem buổi lễ là một nghi thức quan trọng. Buổi lễ cũng không xảy ra theo sự sắp đặt riêng của anh. Anh đang ở trong tù. Đức Lama Chagdud Tulku đã quá già, lại không được khỏe và cũng hiếm khi có mặt ở Mỹ. Một duyên tình cờ Ngài có mặt ở vùng gần đây và sẵn lòng đến gặp anh, vì thế ngày mai sẽ là ngày thọ giới của anh. Có thể xảy ra trục trặc nhưng nếu mọi việc đều tốt đẹp thì quả là một điều kỳ diệu. Tôi khuyên anh như thế.
Ông trợ lý quản đốc nhà tù đã từ chối lời yêu cầu làm lễ thọ giới bên trong phòng giam của Jarvis, nơi ngài lama có thể đặt tay lên người Jarvis. Không giống như lễ rửa tội của đạo Thiên Chúa hay đạo Do Thái, lễ thọ giới của đạo Phật không được Sở Cải Huấn công nhận. Vì thế, buổi lễ phải diễn ra qua lớp kính cửa sổ. Vị Sư cũng không thể tặng cho Jarvis những vật có ý nghĩa tôn giáo mà ngài thường tặng cho các đệ tử bên ngoài nhà tù mỗi khi làm lễ quy y. Trên đường đi ra, một cách thân tình, tôi yêu cầu ông già bảo vệ an ninh phòng khách vào ngày mai, hãy cung cấp một đường điện thoại xa để chúng tôi có thể trao đổi riêng với nhau. Tôi nói với ông nhân viên an ninh già là sẽ có một vị Lạt Ma Tây Tang đến nhà tù. Ông ta nói đùa với tôi rằng ông có xem phim “Con Trời” (The Golden Child) “đây cũng giống con trời phải không?” và còn nói đùa tiếp “Eddie Murphy (nhân vật chính đóng phim ‘con trời’) cũng đến phải không?”
Sáng hôm sau, khi tôi đến nhà tù thì Sư Chagdud Tulku và thông dịch viên Tsering Everest đã ngồi trên một chiếc ghế giữa đám đông ngoài phòng chờ. Hành lang đông nghẹt người thăm tù, khói thuốc, tiếng người nói oang oang và tiếng trẻ em khóc. Vị Sư ngồi yên, những ngón tay sạm màu đầy vết nhăn đang lặng lẽ lần tràng hạt, đôi mắt sáng của ngài như đang chiêm nghiệm những gì đang xảy ra chung quanh. Ngài ngồi im lặng trong bộ áo tràng với những nút màu xám phủ dài trên sàn phòng đợi, chòm râu màu muối tiêu. Đến trưa, khi gần đến giờ mở cửa phòng thăm, đám đông đã chờ từ sáng sớm, càng lúc càng căng thẳng hơn. Vị Sư cũng đã chờ hơn hai tiếng đồng hồ rồi. Ngay phía trước ngài, hai người phụ nữ trẻ, bằng thứ ngôn ngữ đường phố, bắt đầu mắng một ông già chỉ vì chuyện giành chỗ đứng, trong khi vị Sư vẫn nhìn họ trong im lặng.
Khi nhiều người đang đứng xếp hàng đang lắng nghe, Đại Sư kể cho họ nghe một câu chuyện về nhà tù Trung Quốc ở Tây Tạng. Ngài kể rằng người Trung Quốc bắt hàng ngàn dân Tây Tạng đào nhiều hố thật sâu. Mỗi hố là một nhà tù cho người đào nên cái hố ấy. Những người tù Tây Tạng sống, ăn ở và phơi bày thân thể cả trong mưa lạnh như thế trong cái hố sâu ấy cho đến chết. Ngay cả sau khi chết đi, cái hố sâu đó trở thành mồ chôn họ. Ngài kể rằng ở Tây Tạng có sáu mươi ngàn tù nhân bị giam giữ trong tình cảnh như vậy.
Cuối cùng chúng tôi bắt đầu đi vào phòng thăm viếng. Vị Sư tháo giày và áo tràng để được khám xét và đi qua một cái máy kiểm tra. Tôi chạy vội vào để kịp lo thủ tục đưa Jarvis ra khỏi phòng giam. Khi Jarvis xuất hiện trong ánh đèn mờ nhạt ở phía bên kia tấm kính dơ bẩn và trầy trụa, phòng thăm đã đầy kín thân nhân, vợ con đi thăm tù. Tiếng nói lớn vang dội trong hành lang, khói thuốc mịt mù bao phủ chúng tôi. Quang cảnh của buổi lễ thọ giới cho Jarvis bắt đầu như thế.
Bên phía chúng tôi, người thông dịch cầm điện thoại. Phía bên kia, Jarvis đứng sát vào mặt kính, áp tai vào điện thoại, ánh sáng mờ không soi đủ khuôn mặt anh nhưng chúng tôi cũng thấy rõ anh đang mỉm cười và đôi mắt chứa một chút lo âu.
Vị Sư hỏi: “Tinh thần con có minh mẫn không?”
Jarvis kể lại buổi lễ thọ giới
Khi tôi có cơ hội để nhận lễ thọ giới từ một ngài lama Phật Giáo Tây Tạng, cảm giác đầu tiên tôi nhớ được, là không xứng đáng. Rồi đến lo sợ khi nghĩ đến việc một buổi lễ như thế lại diễn ra tại nhà tù tiểu bang bạo động như San Quentin này.
Tôi chỉ là người mới bắt đầu tập sống theo đạo Phật. Thông qua những người bên ngoài, tôi đã bắt đầu học thực hành thiền Phật Giáo. Tôi giữ kín việc thực hành thiền. Trong khả năng có thể, tôi gữ bí mậtchuyện này, không nói với bạn tù cũng như những nhân viên bảo vệ an ninh của trại.
Sau tám năm tù, tôi vẫn cảm nhận một nỗi lo sợ thật sự khi gọi chính mình là một Phật tử và khi các bạn tù thấy tôi ngồi xếp chân trong tư thế hoa sen, cầu nguyện hay thiền định. Đặc biệt, tôi cũng rất sợ bị người khác thấy tôi nhận lễ thọ giới. Trong lúc tâm hồn tôi vui mừng chờ đón cơ hội, những tiếng nói khác trong tôi lại thắc mắc về buổi lễ này . Đây có thể là chặng đường khác tôi sẽ phải đi qua? Có thể trong tương lai tôi lại phản bội chính tôi và ý nghĩa thiêng liêng của lễ thọ giới? Phải chăng tôi đã là một Phật tử? Những điều tôi phát nguyện, thực sự, có buộc tôi phải hy sinh cuộc đời mình? Làm thế nào tôi lại có thể chống lại tất cả những bạo động của nhà tù?
Trong tù, không ai tin rằng việc cải đạo là thật. Hầu hết tù nhân đều nghĩ rằng ai đó nhận một niềm tin tôn giáo bất ngờ chẳng khác gì tham gia một trò chơi hay lừa dối để tìm đường ra khỏi nhà tù.
Tôi trải qua gần một năm để vượt lên những hoài nghi đó, từng điều từng điều một, thông qua việc thực tập và thông qua những bài giảng của ngài Chagdud Tulku, vị lama tôi sẽ nhận lễ. Dù sao, tất cả lần nữa xuất hiện trong buổi lễ. Đang ngồi dưới nền phòng giam cố gắng tỉnh tâm, tôi lại sợ. Nhà tù dội lại tiếng nói của hàng trăm tù nhân, chửi rủa và la ó lẫn lộn hòa âm cùng một lúc.
Tôi ngồi bất động, không ngớt niệm hồng danh đức Quan Thế Âm Bồ Tát. “Quan Thế Âm Bồ Tát. Xin hãy nhìn thấy con, xin giúp cho con vượt qua những chướng ngại và cho ước vọng của con sớm thành đạt” Trong mỗi lần cầu nguyện, tôi tìm nơi Quán Âm của lòng tôi một sức mạnh thiêng liêng để giúp tôi xua đuổi những lo âu, chuẩn bị tinh thần chấp nhận một cách công khai lễ Thọ Giới của mình và để giúp tôi chào đón ngày đầu tiên tôi được sống trong tinh thần Phật giáo. Nhưng mặc dù cầu nguyện như vậy, tôi vẫn muốn giữ bí mật việc tu tập của mình, để duy trì tâm thanh tịnh khi thực tập thiền. Tôi chỉ muốn có thời gian thật tĩnh lặng trong cuộc sống tù đày của mình.
Tôi chỉ gặp sư Chagdud Tulku một lần trước đó. Tôi vô cùng xúc động khi ngài bất ngờ đến nhà tù San Quentin để thăm tôi. Nguyên tắc nhà tù chỉ cho phép chúng tôi trao đổi bằng điện thoại trong buồng thăm nho nhỏ, xuyên qua cửa sổ bằng kính. Suốt buổi viếng thăm, tôi cảm nhận sự ấm áp từ tấm lòng của vị sư dù chỉ nhìn ngài thôi và tin tưởng những lời ngài giảng. Tôi hy vọng rằng, qua những lời hướng dẫn cách thực hành trong nhà tù, một ngày tôi sẽ có thể công khai nhận lễ thọ giới.
Bây giờ tôi cảm thấy may mắn được ngồi trên sàn phòng giam chờ đợi cơ hội đến. Tôi nhớ lâu lắm rồi, có một người nói với tôi rằng “Tất cả những gì ngươi cần là một tâm hồn thanh tịnh. Đó là điều cần thiết nhất. Hãy im lặng lóng nghe.” Đó là những gì tôi đang làm.
Buổi trưa vào ngày cử hành lễ, tôi được gọi tên. Một nhân viên an ninh còng tay và đưa tôi đến khu thăm tù. Trên đường đi, tôi tiếp tục niệm hồng danh đức Quan Thế Âm Bồ Tát cho đến khi mắt tôi bắt gặp đôi mắt của vị sư lần thứ hai trong đời mình.
Tôi ngồi đối diện với vị sư qua một lớp cửa kính chắn giữa. Bên cạnh ngài là Tsering, một học trò thân cận của ngài, sẽ làm thông dịch. Cô Melody, bạn và cũng là một Phật tử, cũng có mặt trong buổi lễ để mừng và chia sẻ với tôi. Chúng tôi vui mừng chào hỏi nhau trong lúc các khách thăm tù nhìn chúng tôi.
Tôi cầm điện thoại lên. Phía bên kia chị Tsering cũng đã cầm điện trên tay. Với một nụ cười dễ thương rạng ngời trên khuôn mặt, chị hỏi thăm sức khoẻ tôi. Tôi đáp lại bằng nụ cười và cũng trả lời cho mọi người biết là tôi mạnh khỏe. Chúng tôi đều vui cười. Sau đó, chị Tsering quay sang vị lama để nhận lời của ngài.
Chị Tsering nhìn tôi hỏi, “sư hỏi tinh thần anh có minh mẫn không”
“Dạ minh mẫn”, tôi đáp.
Melody Emachild: Đoạn trích từ lễ Thọ Giới
Vị Sư: Chuyện chúng ta không thể tiếp xúc trực tiếp không phải là điều quan trọng. Sức mạnh của buổi lễ là từ những lời con đang nghe. Thầy mong con có cái nhìn thoáng về mọi việc. Đừng đổ tội cho ai khác về những khó khăn của chính mình. Con sẽ thấy một tù nhân giận dữ là một điều đáng buồn vì anh ta đang tạo nghiệp xấu. Tất cả những điều đó đã nằm lại sau lưng con rồi. Từ đây về sau, con hãy hướng về phía trước. Trước tất cả mọi người, con hãy hứa: Tôi sẽ không giận dữ. Tôi sẽ không làm hại bất cứ ai bằng hành động của tôi. Đó là mối quan tâm hàng đầu của tôi mỗi ngày, dù phải mất đi mạng sống. Nếu con giữ lời phát nguyện này, con sẽ không còn tạo ra bất cứ sự đau khổ nào cho chính con trong tương lai. Chính con phát lời nguyện và lặp lại ba lần, hãy phát nguyện trước chư thiên, chư Phật và mọi người. Điều này giúp con bình an. Giống như việc nếu không uống thuốc độc thì con sẽ không bị đau bụng.”
Jarvis: Từ nay trở đi, con sẽ không làm ai đau đớn, không hại người khác dù phải mất đi mạng sống của chính mình.
Vị Sư: Lời phát nguyện thứ hai: Từ nay về sau, con sẽ cố gắng chấm dứt khổ đau của nhân loại và của muôn loài chúng sanh. Chúng ta mang thân xác này từ lúc sinh ra. Đây là phần của nghiệp, nhưng đó không phải là cứ như vậy. Việc thọ giới làm thay đổi ý thức của chúng ta về thân thể mình. Bây giờ còn sống đó, bây giờ đang chết đó và sẽ biến mất đi. Có khoảng cách giữa các phân tử. Thân thể ta cũng vậy. Một khoảng trống vô tận, một khoảng không vô tận. Có sự nối tiếp giữa thực và mộng. Thân xác, hủy hoại và tái sanh. Bản thể thì đều giống nhau. Tánh không là nền tảng của tất cả. Trong tánh không là trí tuệ, trí tuệ không sanh và cũng không diệt mà là chân lý vĩnh cửu Giống như bầu trời….Chúng ta dùng ngôn từ để gọi là tốt và xấu, nhưng tất cả thật ra chỉ là tiếng gió thổi qua giọng nói của mình. Âm thanh của bầu trời là âm thanh của tánh không. Âm thanh là một biểu hiện của tánh không và thân xác của con cũng vậy. Tất cả là một,một tia nắng là một phần cảu cả mặt trời.
Nếu điều đó khó hiểu, con hãy nghĩ về một giấc mơ. Cuộc đời chỉ là giấc mơ. Tất cả tùy thuộc về việc tôi nghĩ về nó như thế nào. Nhà tù là một ví dụ. Con có thể cho rằng nhà tù hẳn là một nơi xấu nhưng một người sống trong căn nhà tuyệt đẹp cũng vẫn tự sát thì sao. Mồi người phải ngồi một nơi nào đó, dù tuyệt vời hay khốn khó. Địa ngục chẳng ở đâu xa. Địa ngục có ngay trong cơn ác mộng của chính con người. Địa ngục là kết quả của lòng thù hận trong chính mình. Có hai cách để thay đổi tâm thức. Một là suy nghĩ, suy nghĩ và suy nghĩ , một cách khác là buông xả cho mọi suy nghĩ ra đi và lắng lòng. Bản thể của tất cả sự sống trên trái đất đều giống nhau. Chúng đều có một mùi vị như nhau. Khái niệm của tâm là những gì cho chúng ta ý nghĩ rằng có những sinh linh khốn khổ và những sinh linh sung sướng. Giống như phim ảnh, đó chỉ là ánh sáng chạy trên giấy bóng kính. Hãy nhận thức tất cả điều đó như cuốn phim trong ý thức con. Phải hiểu rằng bản chất của thân xác con là bất diệt và bản chất của con là thật, hoàn thiện và thanh tịnh. Đặc tính của tâm là rộng mở và hiện hữu. Ý tưởng phát xuất từ trí óc của con. Giống như cánh cửa kính này, nếu con chỉ nhìn vào tấm kính thì con sẽ không thấy gì cả. Nếu con nhìn vào ý tưởng con sẽ không thấy được sự toàn thiện.
Jarvis: Trong tù, giúp đỡ người khác có thể mất mạng trong nay mai. Con có được xem là vẫn giữ được điều đã phát nguyện nếu hành xử theo cách người ta thường nghĩ không? Liệu con có thể sử dụng sự khôn khéo để tránh tạo ra cái chết cho mình không?
Vị Sư: Nếu con giúp một người mà phải đổi bằng thân xác của mình thì cũng chỉ cứu một người. Tuy nhiên nếu con có thể trau giồi tâm để giúp đỡ người thì đó là cách tốt đẹp nhất. Cuối cùng con cũng sẽ hiểu ra bản chát thanh tịnh của mình. Trước khi nhận ra điều này, con sẽ cảm nhận được thiên đàng và địa ngục. Giống như để quanh con 100 tấm gương, nếu chúng ta dơ dáy và xấu xí, chúng ta thấy người khác cũng vậy. Nếu chúng ta sạch và tốt, chúng ta cũng sẽ thấy người khác như vậy. Tất cả chỉ là một chức năng của tâm. Cái cách để thực hành là để thấy mọi người thanh tịnh dù họ hại hay giúp con, ngay cả loài động vật hay một người bảo vệ an ninh nhà tù, hãy nhìn sự toàn thiện nơi họ. Hãy nghe âm thanh như toàn thiện, như Đức Quan Thế Âm đang dạy. Bất cứ ai có sanh thì sẽ diệt….Mỗi sát na là một cơ hội để được bình an, thanh tịnh và giúp đỡ. Đức Quan Thế Âm nói: con là ngài, tuyệt đối toàn thiện…..
Cuối mỗi ngày, hãy sám hối những ý tưởng và hành động xấu mình đã gây tạo. Khi làm điều tốt, tiếp tục làm. Mỗi điều sai, sám hối và để nó ra đi. Giống như mình đang bơi, cứ thế tiếp tục mà bơi.
Jarvis: Con cảm thấy thanh tịnh khi con gần gũi thầy, nhưng rồi sẽ rất dễ dàng quên đi.
Vị Sư: Hãy cầu nguyện đức Quan Thế Âm hộ trì. Từ thân thể ngài, ánh sáng sẽ đi vào cơ thể con. Ngài luôn ở với con, ngay trên đầu con, giúp xóa đi những vết dơ, ban cho con sự trong sạch và niềm vui trong cuộc sống.
Jarvis: [hỏi về trường hợp một nhà sư tự thiêu để chống chiến tranh vùng vịnh mà anh xem trên truyền hình]: Điều đó có ý nghĩa gì?
Vị Sư: Nhà sư thể hiện tình thương để chấm dứt chiến tranh. Với nhà sư việc đó là tốt. Với con, có thể là không. Có thể con chưa sẵn sàng để làm việc đó. Nhà sư đó xem thân xác không khác gì bộ áo quần. Chúng ta, không phải ai cũng làm được như vậy.
Hôm nay, con đã phát nguyện, với chúng tôi, con trở nên một người trong gia đình. Chúng tôi sẽ giúp con. Chúng tôi cầu nguyện cho con mỗi ngày. Chúng tôi luôn nghĩ về con.
Javis: Con thật sự cảm nhận được điều đó, con biết ơn thầy.

Buổi thăm viếng kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ. Sau buổi lễ, thật khó nghe từ phía đầu dây bên tôi. Quá nhiều tiếng nói chuyện ồn ào xung quanh. Các tù nhân khác cùng nói trên những điện thoại nối nhau thành một chuỗi dài, thật khó cho tôi có thể nghe tiếng của người đang thăm viếng mình. Tự nhiên tôi thắc mắc, “Ồ”, “Chẳng lễ cũng ồn ào như thế này trong buổi lễ hay sao?” Tôi cảm thấy như vừa lấy cái nút chặn âm ra khỏi tai mình – dường như tôi cũng vừa đặt chân trở vào cánh cửa của thực tế tù đày lần nữa.
Cuối buổi thăm viếng, tôi nói chuyện với Melody, người ngồi sát cửa sổ trong suốt buổi lễ. Tôi cám ơn chị đã có mặt và nhờ chị chuyển lời cám ơn Đại Sư và Tsering về tất cả phước đức họ đã mang đến cho tôi. Tôi nói với chị, tôi đã cám ơn nhưng không nói hết lời vì nước mắt của lòng biết ơn đang dâng trào, và tôi không muốn ai thấy mình đang khóc. Melody hiểu điều đó. Chị gát điện thoại, cùng với Đại Sư và Tsering vẫy tay chào, ra đi. Tôi vẫy tay chào họ.
Khi tôi chờ để được nhân viên an ninh đưa trở về phòng giam, một tù nhân gọi qua hỏi có phải tôi là một Phật tử đang thực hành không. Tôi ngừng một chút. Khi tôi sắp trả lời thì một nhân viên an ninh bước đến đứng giữa chúng tôi để lắng nghe. Tôi nhìn sang người nhân viên an ninh, thấy ông ta nhìn sang chỗ khác, tôi đáp, “đúng, tôi là Phật tử”. “Phải chăng, tất cả chúng ta đều giống nhau, cách nầy hay cách khác? Trong cuộc đời này” , rồi tôi nhìn người nhân viên an ninh và nói tiếp, “Cuộc sống, tôi nghĩ, có lẽ nên có một chút tính Phật trong tất cả chúng ta”.Người nhân viên an ninh nhin tôi với nụ cười ngạc nhiên, rồi bước đi. Tôi cũng thấy thật lạ. Tôi nhìn qua cánh cửa sổ nơi có chiếc ghế của vị Sư vừa ngồi, và chợt cảm thấy một niềm tin mạnh mẻ rằng Vị Sư như vẫn còn ngồi đó. Tôi hướng đến chiếc ghế trống và cúi đầu xá lạy ba cái