Wednesday, October 8, 2014

TÔN TRỌNG THEO TINH THẦN ĐẠO PHẬT (Kỳ 2)



2.    Tôn trọng chân lý


Thái độ tôn trọng chân lý, tôn trọng sự thật được diễn tả bằng nhiều từ trong kinh điển Pāli như tôn trọng, tôn kính, sùng kính, kính trọng, cung kính pháp. Pháp ở đây là dùng để chỉ cho những chân lý vũ trụ, các quy luật vận hành khách quan, không phụ thuộc vào tình cảm con người. Sự tôn trọng này có thể thực hiện được khi chúng ta có trí tuệ để học và thấu hiểu nguyên lý duyên sinh hay tính điều kiện trong nguyên lý nhân quả.


Thấu hiểu lý nhân quả, duyên sinh và nghiệp và dành cho nguyên lý này một sự tôn trọng để định vị mình trong thế giới duyên sinh này để rồi định hướng cho thái độ, hành vi của mình trong cuộc sống. Đức Phật không phải là người sáng tác ra các chân lý, Ngài chỉ khám phá ra sự vận hành khách quan của chúng và bằng kinh nghiệm tự thân, Ngài khuyên dạy chúng ta sống thuận theo chân lý để được an lạc, hạnh phúc. Trong kinh Tạp A Hàm, Phật dạy: “Dù Như Lai có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, mọi sự vật hiện tượng vẫn tồn tại, vận hành theo nguyên tắc duyên sinh. Khi những yếu tố, những điều kiện mất đi thì mọi sự vật hiện tượng không tồn tại. Vạn pháp không nằm ngoài nguyên lý: Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt”. Giáo pháp duyên khởi vô cùng quan trọng trong giáo lý Phật giáo. Đức Phật từng tuyên bố “Ai thấy duyên khởi, người đó thấy Pháp” (Đại kinh dụ dấu chân voi, Trung bộ kinh số 28).

Học thuyết nhân quả duyên sinh cho chúng ta biết mối liên quan hữu cơ giữa các pháp và liên quan như thế nào. Công thức nhân quả, một cách đơn giản, nói rằng mỗi sát na thời gian đều chứa đựng ba yếu tố: kết quả nghiệp quá khứ, hành động hiện tại và kết quả tức thời của hành động hiện tại. Mặc dù nguyên lý này có vẻ đơn giản, nhưng chuỗi hệ quả của nguyên lý này rất phức tạp. Mỗi một hành động (nghiệp) chúng ta làm đều chịu ảnh hưởng, tàn dư của quá khứ, để lại ảnh hưởng trong giây phút hiện tại và rồi âm hưởng ấy còn tác động ở tương lai. Tùy thuộc vào sự chú tâm tác ý, cường độ của hành động, những âm hưởng ấy có thể gây ảnh hưởng trong một thời gian dài hay ngắn khác nhau. Như vậy, mỗi một trải nghiệm có điều kiện được định hình bởi các hậu quả kết hợp của các hành động quá khứ theo dòng thời gian, cùng với hậu quả của các hành động trong hiện tại và tạo một động lực định hướng về tương lai.

Nhiều người lầm tưởng rằng nhân quả là một giáo lý dễ hiểu, cứ gieo nhân thế nào, ra quả thế đó, có gì đâu khó hiểu. Thật ra, không phải dùng suy luận kiểu tuyến tính, tất cả đều diễn ra trên một đường thẳng, một mặt phẳng mà có thể hiểu được nhân quả. Cần phải đặt vào trong không gian đa chiều, trong suốt thời gian từ quá khứ, đến hiện tại và tiếp đến tương lai với sự tác động của rất nhiều yếu tố có tính chất khác nhau, cường độ khác nhau mà ta gọi là “duyên” vào hành động (nghiệp) tạo tác, kết quả theo đó mà hình thành. Hoạt động của nhân-nghiệp- quả diễn ra phi tuyến tính. Vậy nhân kết hợp với duyên mới cho ra quả, mà duyên thì phức tạp vô cùng. Ví dụ đơn giản nhất để có thể từ đó hiểu hơn về nguyên lý nhân quả. Không phải cứ đổ gạo (nhân) vào nồi, nổi lửa lên là có cơm (quả) đâu. Có khi gạo thành cơm nếu vừa nước, vừa lửa. Gạo có thể thành cháo nếu duyên nước và lửa khác đi và gạo cũng có thể thành một thứ sống sình không thành cơm thành cháo, không ăn được nếu duyên nước và lửa khác hơn hai trường hợp trên. Như vậy, trong tiến trình nhân quả, “duyên” là những yếu tố tác động, góp phần định hình hành động cùng với chuỗi các kết quả mà hành động (nghiệp) đưa đến.

Nhân quả, qua thời gian, để lại một số giới hạn nhất định trong mỗi sát sa. Hiện tại không phải hoàn toàn là một tờ giấy trắng, vì một phần nó được quyết định bởi các ảnh hưởng của quá khứ. Đức Phật từng dạy “ ta là kẻ thừa tự của nghiệp” (Tăng chi bộ kinh, Chương V, phẩm VI, kinh số 57; Tăng chi bộ kinh, Chương V, phẩm XVII, kinh số 161; Trung bộ kinh, số 135; Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm XXI, kinh số 205) hoặc : “Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)” (Kinh Hạnh con chó, số 57 Trung bộ kinh). Cấu trúc cơ thể với ngoại hình sai khác ở mỗi  người, những tiềm năng hoạt động của trí não, thể trạng sức khỏe, tính cách và bao nhiêu thứ gói ghém nơi con người mình là “di sản” của quá khứ và hiện tại là sự tiếp nối và thừa hưởng gia tài này để phát triển, phát huy các tiềm năng của con người trên cơ sở của “di sản” quá khứ này. Một người có cấu trúc cơ thể 1,5 mét thì dùng mọi cách cũng không thể thành người 1,7 mét được.

Tuy nhiên, không phải mọi thứ đều do quá khứ quyết định theo nghĩa tiền định, mà những gì quá khứ để lại cho ta trong chuỗi vận hành nhân quả đóng vai trò tiền đề, là “vốn sẵn có” để làm nền tảng chúng ta khởi đầu trong kiếp sống này kiến tạo tiếp cuộc sống của mình. Do đó, nhân quả trong hiện tại có chỗ cho sự tự do của tâm ý và ở các bài kinh đã đề cập ở trên, Đức Phật nói “nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa”. Từ điểm tựa này, Đức Phật nhấn mạnh đến vai trò của bản thân mỗi người trong hiện tại đối với vận mệnh của chính mình rằng “ta là chủ nhân của nghiệp”. Trong bất cứ một giây phút nào, chúng ta cũng có thể đưa dữ liệu mới vào trong quá trình vận hành của nhân quả và uyển chuyển cuộc sống mình theo một hướng mới theo chủ tâm và chú tâm của mình. Thế nhưng, tự do trong hiện tại ở đây không phải là vô hạn. Như đã lý giải ở trên, hiện tại gắn liền với quá khứ và những gì mỗi người sẵn có trong hiện tại đều có giới hạn từ tàn dư quá khứ. Ta không có nhiều không gian cho tự do ý chí đến mức nhân quả trở nên tùy tiện, vì những gì ta đang thừa hưởng trong hiện tại là quả của nhân trong quá khứ và tự do ý chí cũng chỉ có thể dao động trong một cái ngưỡng nhất định. Mỗi một “cái này” khi đưa vào trong hệ thống nhân quả đều tạo nên một “cái kia” tương ứng. Mọi sự kiện đều diễn ra theo các mô thức nhất định trong phạm vi chúng ta có thể xử lý được.

Mối quan hệ duyên sinh này / kia không phải là một quá trình tự do tùy tiện. Mỗi hành động bất thiện này liên kết với tâm bất an kia và đưa đến kết quả đau khổ; mỗi hành động thiện này liên kết với tâm bình an kia và đưa đến kết quả hạnh phúc. Nguyên lý duyên sinh có quy luật vận hành của nó, ta không thể xoay sự liên kết ấy để đưa đến những kết quả an vui khi liên kết tâm bất an với hành động bất thiện. Ta cũng không thể sử dụng những gì mình thích để tạo những mối liên kết mà mình cho là “duyên sinh” để xây một con đường theo cách mình muốn nhằm thoát khỏi sự chi phối của nhân quả.

Nhìn công thức đơn giản “cái này có, cái kia có”, ngay cả Ngài Ananda cũng ngỡ rằng nguyên lý này đơn giản, dễ hiểu, nên thưa với Đức Phật rằng “Bạch Thế Tôn, giáo pháp Duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy, và giáo pháp này đối với con hết sức minh bạch rõ ràng”, nhưng Đức Phật liền cảnh tỉnh rằng “Này Ananda, chớ có nói vậy! Này Ananda, giáo pháp duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy. Chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử” (Kinh Đại duyên, Trường bộ kinh, số 15). Trên thực tế, tất cả giáo lý của đạo Phật được xây dựng trên nền tảng của nguyên lý duyên sinh này. “Cái này” trong mối liên quan với “cái kia” theo công thức “cái này có” thì “cái kia có” là nguyên lý chi phối tất cả các quy luật vận hành khách quan. Vì có sinh ra trên cõi đời này, ắt có ngày chúng ta phải từ giã nơi ta đến; có sanh, có diệt; có đến có đi, nhưng vì si mê chúng ta không nhận diện được vô thường, không nhận diện được duyên sinh, nhân quả nên phải chịu khổ đau. Chính vì vậy, Đức Phật dạy ở đoạn kinh trên rằng, chính vì không thấu triệt tương quan nhân-duyên-quả mà con người không lường đến hậu quả khi tác ý hành động nên không thể nào tránh khỏi khổ đau trong hiện tại và tương lai.

Chỉ có nghiệp – hành động có tác ý – là nhân tố đóng vai trò quyết định để làm nên cuộc sống hạnh phúc hay khổ đau cho chính mình trong cuộc sống này. Sự chủ tâm tác ý là yếu tố được Đức Phật xác định như là điều kiện cần thiết để tạo thành nghiệp (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VI, kinh số 63). Nội dung câu pháp cú 1 và 2 cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tác ý rằng “tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác, nếu nói hay làm với tâm nhiễm ô, quả khổ đến ngay; nếu nói hay làm với tâm thanh tịnh, thì quả vui liền đến”. Và bởi vì sự chủ tâm của mình, vốn được dắt dẫn bởi các quan điểm và đưa dữ liệu mới vào hiện tại, có thể điều chỉnh kinh nghiệm của mình để tác động đáng kể đến kết quả. Trong quá trình này, khả năng học và kỹ năng chú tâm của chúng ta có thể tạo nên sự khác biệt. Tỉnh giác nghĩa là có ý thức rõ ràng rằng nếu chúng ta không cẩn trọng trong chủ tâm tác ý, chúng ta sẽ chịu khổ đau. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể thay đổi hành vi và đạt được kết quả từ những kỹ năng cải thiện của mình, được biểu hiện ở trạng thái an lạc ngày càng nhiều hơn. Nếu thật sự biết yêu mình, chúng ta  phải chú tâm thật nhiều và thật kỹ vào sự vận hành của thực tại và thuận theo đó mà hành động. Không phải tất cả những gì chúng ta nghĩ hay cảm nhận đều đáng tôn trọng cả đâu.

Đức Phật dạy rằng, thay vì nhìn thực tại theo những gì mình thích, chúng ta nên điều chỉnh, chuyển hướng những cái thích của mình ứng hợp với các quy luật khách quan để học được nhiều nhất những gì có thể mà không phải khổ đau. Ví như thân này là vô ngã, ta thấy là “có ngã” thì ta khổ, còn chuyển nhận thức sai lầm của mình để thấu hiểu, thân này không có một cái ngã thực thể thì ta thong dong tự tại hơn và dần tiến đến con đường giải thoát hoàn toàn. (Tương ưng bộ kinh, tập III, chương 1, Kinh Vô ngã tướng). Cách hiệu quả nhất là chúng ta quan sát những hành động và kết quả của những hành động ấy với thái độ vô cùng thận trọng và chân thành để tránh nhân gây khổ, tạo nhân đưa đến an vui, hạnh phúc. Như vậy, chủ tâm tác ý, chú tâm tỉnh giác và luôn học hỏi từ trải nghiệm thực tế là cách thể hiện sự tôn trọng nguyên lý nhân quả. Trên cơ sở này, tôn trọng chân lý nhân quả, duyên sinh và tự tôn trọng chính mình có mối liên hệ không thể tách rời, hỗ trợ nhau để tạo cuộc sống an lạc cho chính mình. Lòng tự trọng phải gồm cả thái độ tôn trọng con đường đi của nhân quả, đã tạo nhân thì chắc chắn sẽ có kết quả tương ứng và tôn trọng những phẩm giá cao quý của một con người nơi mình để tạo dựng cuộc sống bình an, hạnh phúc, giải thoát mọi ràng buộc.