Mahinda Wijesinghe
Liên
Trí dịch
Làm thế nào để tạo phước? Có 10 cách sau đây để tạo phước cho mình:
1. Bố thí
2. Giữ giới
3. Thực hành thiền
4. Tôn trọng người
5. Phát tâm giúp người
6. Hồi hướng phước lành
7. Hoan hỷ với phước lành của người khác
8. Giảng giải giáo pháp
9. Nghe pháp
10. Chuyển tà kiến thành chánh kiến
1. BỐ
THÍ (dāna)
Đây là cách tạo phước lành căn bản nhất. Bố thí vật chất là những việc
làm như cho cơm người đói, cho thuốc người đau… Bố thí được đức Phật tán thán
vì đây là đức hạnh nền tảng và vì chính bố thí giúp người thực hành pháp này giảm
đi tâm tham ái – tên thủ phạm xây dựng ngôi nhà khổ đau, vì Ngài gọi tham ái là
tâm nhiễm ô.
Những ai thiếu đi các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống và người nào đáp ứng
được sự thiếu hụt này tạo nên sự bố thí tài vật. Người cư sĩ tại gia thường
cúng dường (cách nói trang trọng và tôn kính khi bố thí cho người xuất gia: ND)
bốn loại vật dụng thiết yếu đến người xuất gia. Đó là y áo, thức ăn, chỗ trú ngụ
và thuốc trị bệnh. Nhờ đó, người bố thí tích lũy được nhiều phước lành.
Người bố thí thức ăn là người ban tặng cho người nhận năm phần phước
lành: sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí tuệ. Theo đó, trong tương
lai, người bố thí ấy sẽ có đủ năm phần phước lành: sống lâu, sắc tốt, yên vui,
sức mạnh và trí tuệ này[1].
Thêm vào đó, người ấy sẽ được năm phước lành khác nữa là: có uy tín ảnh hưởng lớn
đến mọi người, thân cận người hiền trí, có danh tiếng tốt đẹp được truyền rộng
ra, tự tin chứ không sợ hãi, rụt rè và sau khi mạng chung, được tái sanh về cõi
trời[2].
Hành động tốt
hay xấu tùy thuộc vào sự tác ý trong quá trình tạo nghiệp; cũng như vậy, trong
bố thí, tác ý (cetanā) mới là quan trọng
chứ không phải hành động bên ngoài.
Ở đây, tác
ý thiện phát khởi nơi người bố thí trong ba thời (a) trước khi bố thí tâm vui vẻ,
(b) trong khi bố thí tâm tịnh tín và (c) sau khi thực hiện bố thí xong, nhớ lại
việc mình làm với tâm hoan hỷ. Làm được như vậy mới có thể tạo phước lành trong
bố thí[3].
2. GIỚI HAY ĐỨC HẠNH (sīla)
Giới là nền
tảng cho toàn bộ sự thực hành con đường Thánh tám nhánh (Bát thánh đạo), thêm
vào đó, giới là yếu tố đầu tiên của ba loại học (sikkhā) gọi là giới, định và tuệ.
Với việc
tuân giữ 5 hoặc 8 hoặc nhiều hơn các nguyên tắc đạo đức, một người tạo nhiều
phước lành cho mình. Những ai sống đức hạnh sẽ có cuộc sống hạnh phúc và viên
mãn trong hiện tại cũng như trong tương lai. Người có đức hạnh không sợ hãi, vì
người ấy không làm việc gì xấu ác, sai trái với mình và với người. Người ấy
không ân hận, không cảm thấy tội lỗi hay tự trách mình; do đó, người đức hạnh cảm
thấy hoan hỷ, an lạc, bình an và hạnh phúc. Người ấy thành tựu định và tuệ để
thấy các pháp đúng với bản chất như thật của chúng[4]. Thêm vào đó, người ấy có được năm phần
phước lành khác: người giữ giới, sống theo giới luật
sẽ có tiền của dồi dào vì sống siêng năng cần cù, có tiếng tốt đồn xa, không
sợ hãi và bối rối, đến lúc lâm chung tâm không bấn loạn và sau khi mạng chung sẽ
được sinh về cõi trời[5].
Căn bản là
tất cả những hành động xét về phương diện đạo đức được chia thành ba loại: hành
động của thân, hành động của lời nói và hành động của ý. Không giết hại sinh mạng,
không trộm cắp và không tà dục là hành động thuộc về thân. Hành động về lời nói
có bốn phương diện: không nói sai sự thật, không nói lời thô ác, không nói lời đơm
đặt gây chia rẽ và không nói lời nhảm nhí vô ích.
Cuối cùng
là hành động về ý gồm có không tham lam, không sân giận và không tà kiến. Nếu không
giữ giới hay sống theo chuẩn mực đạo đức, sự tiến bộ về mặt tâm linh của con
người rất hạn chế.
Giới (sīla) hay chuẩn mực đạo đức trong mỗi
trường hợp rõ ràng là hướng đến sự đoạn trừ các hành động xấu ác. Tự hổ thẹn (tàm:
hiri) và lo sợ người khác biết hành động
xấu ác của mình (quý: ottappa) là
nguyên nhân gần nhất để giúp cho việc giữ giới. Bởi vì khi tàm và quý có mặt,
các chuẩn mực đạo đức được phát huy và duy trì; còn khi vắng mặt tàm và quý,
các chuẩn mực đạo đức cũng không được phát huy và duy trì.
Nói một
cách cụ thể hơn, có hai loại giới: giới thế gian và giới xuất thế gian. Tất cả
các giới đưa đến quả báo hữu lậu thuộc giới thế gian. Giới thế gian đưa đến đời
sống tốt hơn trong tương lai và đây là một điều kiện để thoát khỏi những khổ
đau trong luân hồi sanh tử. Giới đưa đến quả báo vô lậu gọi là giới xuất thế.
Giới xuất thế trực tiếp đưa đến giải thoát khỏi mọi khổ đau, chấm dứt luân hồi
sanh tử.
Ở đây, một
lần nữa, tác ý thiện khởi lên nơi người giữ giới như một cách tạo phước lành về
phương diện đạo đức hay đức hạnh.
3. THỰC HÀNH THIỀN HAY PHÁT TRIỂN TÂM LINH (bhāvana)
Đây là một
trong những lãnh vực phong phú nhất để tạo phước lành. Có hai loại thiền, là
thiền chỉ (samatha), nghĩa là phát
triển khả năng tập trung (samādhi) và
thiền quán (vipassana), nghĩa là trí
tuệ (paññā). Một hành giả có thể phát
triển thiền chỉ trước rồi sau đó phát triển khả năng quán chiếu, hoặc dùng
chánh niệm để từ đó phát triển khả năng quán chiếu.
Như mục
đích hướng đến của thiền định, cả hai loại thiền đều có sự trải nghiệm của quán
chiếu và phát triển trí tuệ. Một hành giả thực hành thiền để an tịnh những lậu
hoặc thô ở trong tâm và phát triển tâm đạt đến trí tuệ chân thật, trí tuệ không
phải do học từ sách vở mà có. Đó là loại trí tuệ có thể giúp hành giả chứng đạt
Niết bàn.
Một người có
thể chọn tâm rộng lượng hoặc giới hạnh của chính mình chẳng hạn để làm đề mục
hành thiền, trong tình huống đó, tâm người ấy không bị tham, sân và si chi phối;
tâm đạt đến sự thuần chân. Do vậy, khi vị ấy ngăn chặn được những chướng ngại
tâm lý (nīvaraṇa), những chi phần của
thiền định sanh khởi và vị ấy có thể đạt đến trạng thái cận định (upacāra-samādhi). Và nếu người ấy không
thể chứng đạt trạng thái thiền cao hơn, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một cuộc sống
an lành hạnh phúc.
Sự an tịnh
hay thiền định đem lại ba phước báu: tái sanh về cảnh giới an lành, có cuộc sống
hiện tại hạnh phúc và tâm an tịnh – đây là điều kiện tiên quyết của tuệ quán bằng
cách thanh lọc tâm, loại trừ năm loại chướng ngại tâm lý làm ngăn cản sự phát
triển tâm linh, đồng thời chứng đạt bốn bậc thiền siêu thế và giải thoát tâm để
một người có thể thấy các pháp đúng như chúng đang là, như đức Phật dạy:
“Người nào có định tâm, người ấy có thể thấy
pháp như thật”[6].
Tác ý thiện
phát khởi nơi người có thực hành thiền trên các đề mục như hơi thở vào hơi thở
ra hoặc quán kaṣina chẳng hạn, và chứng đạt thiền bằng con đường thiền tịnh chỉ,
hoặc tác ý thiện phát khởi nơi người thực hành thiền trên các đối tượng mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý và các cảm thọ cũng như các tâm cảnh đều vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta)
thông qua con đường tuệ quán. Tất cả những tác ý hoặc xu hướng như vậy là những
cách tạo phước lành trong thiền định.
4. TÔN KÍNH HAY CUNG KÍNH (apaciti)
Tôn kính là
cách tạo phước lành có thể tìm thấy trong các hành động như đứng dậy nhường chỗ
và mời cha, mẹ, anh, chị hay người lớn tuổi ngồi vào chỗ mình, mang giúp hành
lý cho những người ấy, cung kính chào hỏi, nhường lối đi… Hay nói chung là tôn
trọng cảm xúc, quyền lợi, tài sản và cuộc sống của người khác, ứng xử với người
trong tinh thần tôn trọng, tôn kính và quý trọng; không được có thái độ bất
kính, sỉ nhục hay ngắt lời khi họ đang nói; kềm chế tâm mình để không xúc phạm,
mua chuộc hay lôi kéo ai. Một điều đáng buồn là ngày nay, thế hệ trẻ đánh mất
đi sự tôn trọng, tôn kính đối với người khác.
Theo Ngài
Na Tiên (Nāgasena), trong Mi Tiên vấn
đáp (Milindapañha), có 12 hạng người
không tôn trọng, tôn kính người khác: người tham ái vì có tâm tham ái chi phối,
người sân vì có tâm sân chi phối, người si mê vì có tâm phân vân do dự chi phối,
người kiêu ngạo vì có tâm kiêu căng chi phối, người không có đức hạnh cao quý vì
không thể phân biệt đúng sai hay dở, người quá cứng cỏi, không ngoan ngoãn nhu
thuận, người hạ liệt vì tâm trí tán loạn, người xấu ác vì tánh ích kỷ, người hận
thù vì ôm lòng hận thù đau khổ, người tham lam vì không chế ngự được tâm tham,
người chỉ biết đến tài lợi trong kinh doanh vì họ chỉ biết đến cái lợi cho mình[7].
Rõ ràng rằng,
ngược lại với những loại người trên, người cung kính và tôn trọng biết nuôi dưỡng
tâm mình để ngày càng phát triển (và nhờ đó tích lũy phước lành), vì với thái độ
sống cung kính, vị ấy cắt đứt các lậu hoặc của kiêu căng, thay vào đó là các đức
hạnh, nhân cách tốt đẹp. Tôn trọng những bậc trưởng lão và tăng già là những điển
hình về phương diện tôn kính. Sự tôn trọng của một vị tân tỳ kheo dành cho các
vị tỳ kheo lớn hơn cũng không ngoài tinh thần tôn trọng này.
Ở đây, một
lần nữa xác quyết rằng, tác ý thiện phát khởi nơi người có biểu hiện của lòng tôn
kính, tôn trọng người khác; đây là cách để tạo phước qua việc tôn trọng người
khác.
5. PHÁT TÂM GIÚP NGƯỜI
(veyyāvaca)
Đây là cách
tiếp theo để tạo phước lành. Với sự phát tâm phục vụ, đáp ứng nhu cầu của những
người khác với tâm từ bi, hành giả có được phước lành. Phục vụ là cách tích lũy
phước lành có thể nhận thấy thông qua các việc mà chúng ta làm cho người khác, làm
vì người khác. Ví dụ, chúng ta xin bát từ một vị tăng, rửa sạch, sớt thức ăn
vào và dâng lên cúng dường vị ấy.
6. HỒI HƯỚNG PHƯỚC LÀNH (pattānuppadāna)
Hồi hướng
phước lành là một cách tạo phước cần được hiểu trong trường hợp một người thực
hành bố thí hoặc cúng dường chẳng hạn, rồi chuyển phần phước này vào phần phước
lành chung, rằng “mong đem phước lành này hồi hướng như vậy, như vậy!” hoặc
“mong đem phước lành này hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh!”
Bây giờ, vấn
đề là liệu phước lành có mất đi đối với người đã chuyển phần phước ấy? Tuyệt nhiên
không. Ví như một ngọn đèn dầu, khi nó mồi sáng cho cả ngàn ngọn đèn dầu khác,
không vì thế mà ngọn đèn ban đầu lu mờ đi. Ngược lại, ánh sáng của ngọn đèn ban
đầu càng tỏa sáng nhiều hơn với sự góp sáng của ngàn ngọn đèn dầu kia. Cũng như
thế, khi chuyển phước đi, phước lành của người ấy không hề bị suy giảm, ngược lại,
phước ấy lại càng nhiều thêm lên.
Chuyển phước
đến người đã mất là cách hồi hướng phước lành. Như vậy, đức Phật tuyên bố rằng,
một trong những bổn phận của con đối với cha mẹ đã qua đời là hồi hướng phước
lành đến người đã mất[8].
7. HOAN HỶ VỚI PHƯỚC LÀNH
CỦA NGƯỜI KHÁC (abbhanumodana)
Hoan hỷ với
phước lành của người khác là cách tạo phước cho bản thân. Tùy hỷ ở đây được hiểu
là tâm hoan hỷ khi thốt ra lời “ồ, làm như vậy là tốt quá, hay quá!” khi người
khác chia phước với ta, hoặc khi thấy họ làm nhiều việc phước lành khác. Đây
cũng là một trong bốn tâm vô lượng, tâm hỷ vô lượng vậy.
8. GIẢI THÍCH HAY GIẢNG DẠY KINH PHÁP (desana)
Nếu một người
giải thích hay giảng pháp với tâm tham cầu vật chất hay danh tiếng, “như vậy họ
sẽ biết ta là một pháp sư” thì việc giảng dạy giáo pháp này không đem lại một
chút phước lành nào cả. Tuy nhiên, nếu một người đạt đến sự giải thoát khỏi khổ
đau, không để khổ đau chi phối, và họ đem những trải nghiệm bản thân để giải
thích hoặc giảng dạy cho người khác pháp mà bản thân vị ấy đã thuần thục, thì
đây là cách tạo phước lành trong việc giảng giải giáo pháp.
Một điều đáng
ghi nhận rằng đức Phật tuyên bố, trong các loại bố thí, bố thí pháp là cao thượng
nhất. Nói cách khác, một người có thể mở con mắt pháp cho người khác bằng cách
giải thích, giảng dạy, diễn giải pháp cho người ấy hiểu, thì đây là món quá lớn
nhất và cao cả nhất dành cho tất cả. Thật ra, đức Phật từng dạy rằng, nếu một
người chăm sóc cha mẹ bằng cách cõng cha và mẹ trên vai trọn đời cũng không thể
nào đáp đền công ơn của cha mẹ. Cách duy nhất để có thể đền ơn cha mẹ là giảng
dạy giáo pháp và đưa cha mẹ an trú trong chánh pháp. Ngay cả Ngài Xá Lợi Phất (Sāriputta), bậc đã chứng A la hán, khi
thấy mình không còn khỏe nữa, trước khi nhập Niết bàn, Ngài trở về nhà, giảng
giải Phật pháp cho mẹ Ngài và giúp mẹ chứng đạt giải thoát rồi Ngài mới vào Niết
bàn.
Một người
có thể dâng cúng cho tất cả chư đệ tử Phật với bốn vật dụng thiết yếu trong cuộc
sống như y phục, thức ăn, chỗ trú ngụ và thuốc trị bệnh với những loại tốt nhất
có thể, hoặc cung cấp cho tất cả mọi người mọi thứ vật chất. Thế nhưng, đó vẫn
chưa phải là bố thí tối thượng, mà để giác ngộ họ hiểu giáo pháp với một bài kệ
vỏn vẹn chỉ có bốn câu thôi vẫn được tán thán là đã tặng món quà tối thượng và
cao quý nhất trong tất cả các loại bố thí.
Như vậy, bố
thí pháp nghĩa là giảng dạy và giải thích giáo pháp cho người khác, đưa người
ra khỏi con đường mê lầm sai lạc, đưa họ về con đường chân chánh và chỉ cho họ
hiểu đâu là đạo đức; thêm vào đó, tổ chức các buổi thảo luận giáo pháp, viết và
in sách luận về giáo pháp… cũng là những cách bố thí pháp vậy.
9. NGHE PHÁP (savana)
Nếu một người
nghe pháp mà phát khởi suy nghĩ rằng “như vậy họ đưa ta đến đau khổ” thì việc
nghe pháp ấy chẳng đem lại lợi ích gì cả. Tuy nhiên, nếu một người nghe pháp
mong mình và người khác có được lợi ích nghĩ rằng “việc nghe pháp như vậy đem lại
nhiều lợi ích cho ta”, thiện ý này là cách tạo phước lành khi nghe pháp vậy.
10. CHUYỂN TÀ KIẾN THÀNH CHÁNH KIẾN (diṭṭhijju-kamma)
Thiện ý
giúp người điều chỉnh nhận thức theo con đường chân chánh là một cách tạo phước
lành. Thật ra, hiểu biết chân chánh là đặc điểm đích thực của tất cả mười cách
tạo phước lành trình bày ở đây. Vì chỉ với chánh kiến, một người mới có thể tạo
nhiều phước lành, trong bất cứ lãnh vực tạo phước nào. Bất cứ phước lành nào
làm được đưa đến kết quả viên mãn nhất đều được làm với nhận thức chân chánh,
đúng đắn, bằng không thì đưa đến kết quả ngược lại. Đây là lý do đức Phật dạy:
“Với hiểu biết của ta, ngoài chánh kiến,
không có pháp nào khác mà nhờ pháp ấy các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi,
các pháp thiện đã sanh khởi được nuôi dưỡng tăng trưởng và hoàn thiện”[9].
Theo đức Phật
có hai loại chánh kiến: chánh kiến hữu lậu và chánh kiến vô lậu.
Hiểu biết rằng
bố thí cúng dường là tốt, rằng cả hành động tốt và xấu đều đưa đến quả báo tốt
và xấu tương ứng với những gì đã tạo, đó là chánh kiến hữu lậu, vì mặc dù còn phải
chịu sự chi phối của các lậu hoặc, đây là các việc làm tạo phước lành, đưa đến
quả báo tốt đẹp ở thế gian. Thế nhưng những gì thuộc về trí tuệ, thể nhập, chánh
kiến liên kết với con đường thánh thì được gọi là chánh kiến vô lậu[10].
[3] Sớ giải bộ Pháp tụ (Aṭṭhasālinī),
trang 157 ghi, ba loại tác ý này, ý tưởng khởi lên trước khi bố thí thì gọi là tư
tiền (pubbacetanā);
ý tưởng quyết tâm bố thí khởi lên khi đang làm thì gọi là tư
hiện (muṭcanacetanā),
ý tưởng nghĩ lại và hoan hỷ sự bố thí đã làm thì gọi là tư
hậu (aparacetanā);
Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số
37: Bố thí.