Bài này đã đăng trên Nội san Đuốc Sen và trang daophatkhatsivn từ lâu, vài trang web/blog cũng tự ý đăng lại. Tuy nhiên, Hằng Như xem trang blog này là nơi lưu trữ tài liệu cá nhân, đồng thời là nơi chia sẻ những bài viết, bài dịch của mình với những người có duyên, nên tuy là tác giả của bài viết này, giờ Hằng Như mới chính thức post lên trang blog của mình để giữ tài liệu vậy.
Ngay sau khi thành tựu đạo giải
thoát, Đức Phật làm một vị du sĩ, rày đây mai đó, như cánh chim bạt gió đem niềm
an vui đến cho mọi người khắp nơi thuộc khu vực Bắc Ấn. Tiếng chuông pháp gióng
đến đâu, người người tỉnh ngộ hồi tâm hướng thượng đến đó. Lớp lớp người đủ mọi
thành phần trong xã hội quy ngưỡng Ngài, gia nhập tăng đoàn, tắm nguồn suối
pháp, an lạc thảnh thơi.. Lúc bấy giờ,
các tôn giáo khác, vốn bám gốc sâu trong lòng dân bản xứ, cũng lung lay trước ảnh
hưởng to lớn của Đức Phật đối với xã hội. Do đó, một số người bắt đầu kỳ thị với
Đức Phật và đạo giáo của Ngài, một tôn giáo mới vào thời ấy. Tuy nhiên, với một
nhân cách tuyệt vời, với lòng từ bao la như đại dương và sự dấn thân đi giữa bụi
trần, hy sinh quên mọi gian khó, Ngài đã cảm hoá được tất cả. Những đặc tính vô
song này nơi Đức Phật cảm kích lòng người qua mọi thế hệ, mọi thời đại, cho đến
hiện tại và mãi về sau. Ngày nay, lần giở từng trang kinh, chúng ta cảm
nhận được tinh thần ấy và đó chính là ngọn đuốc sáng soi đường cho mỗi người
trên bước đường học Phật trong mọi thời đại.
Đức Phật có mặt trên cuộc đời như một
đoá sen thanh vươn mình lên khỏi bùn lầy tù đọng, toả hương thơm ngào ngạt khắp muôn phương. Sen ngát hương dâng đời, thế là đủ; sen
không hề nghĩ đến những nỗi khổ khi đứng trong bùn! Đức Phật nhận chân được
chân lý, khai mở con đường sáng đem lại an vui cho đời, Ngài nào có quản chi những
điều kiện không xứng ý bên ngoài. Thế nhưng, chúng ta cũng nên nhắc lại những
khó khăn trong những tháng năm hành đạo của Ngài để tự soi mình, tự nỗ lực hơn
trên hành trình theo dấu chân Đức Phật.
Những gian khó do đệ tử Ngài gây nên
Với trí tuệ cao vời và từ bi rộng lớn,
chẳng bao lâu trên con đường giáo hóa, Đức Phật tạo nên sức ảnh hưởng mạnh mẽ
khắp vùng Bắc Ấn, nhiều người theo Ngài xuất gia tu học. Hầu hết tăng chúng hết
lòng vâng theo lời khuyên dạy của Ngài, tuy nhiên, đôi khi chư đệ tử cũng tạo
nên những việc không làm đẹp ý Ngài lắm. Có khi, vị thị giả đi với Ngài cãi lời,
bỏ mặc Ngài đi một mình. Kinh kể lại rằng, một lần, Đức Phật cùng với một vị thị
giả tên là Nagasamala đang trên đường đi đến Kosala. Khi đến một đường có ngả rẽ,
Đức Phật muốn đi đường này mà tôn giả Nagasamala muốn đi lối khác. Đức Phật chỉ
con đường đúng nhưng rồi tôn giả ấy cãi lời không nghe. Thế là tôn giả ấy đặt y
bát Đức Phật xuống đất giữa ngã ba đường rồi rẽ đi lối khác. Giữa đường tôn giả
ấy gặp cướp và bị chúng đánh, đập vỡ bình bát và xé rách thượng y.[1]
Ngay cả trong tăng đoàn, Ngài cũng
gặp sự chống đối của Devadatta, người em họ đầy lòng ganh tỵ. Devadatta đã ráp
tâm hại Đức Phật nhiều lần. Lần đầu, Devadatta âm mưu cùng với Ajatasattu cho
người bắn tên vào Đức Phật. Không ngờ oai lực của Đức Phật cảm hoá người đó. Lần
thứ hai Devadatta thả voi say hại Đức Phật, nhưng với lòng từ ban trải khắp vạn
loài, Ngài cũng cảm hoá được voi say Nalagiri. Lần thứ ba, Devadatta đã lăn đá
làm Phật bị thương ở chân. Đức Phật phải chịu đựng đau đớn, thân cảm thọ khổ
đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không vừa ý, không thích thú. Nhưng Đức Phật
chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não.[2]
Thường thì Đức Phật du hành cùng với
một số đông chúng tỳ kheoThế nhưng đôi khi Ngài đi một mình, làm mọi việc một
mình, không gọi thị giả, không cần người giúp. Có một lần Đức Phật ở Kosambi,
buổi sáng Ngài vào Kosambi khất thực. Sau khi độ ngọ, trên đường đi khất thực về,
Ngài dọn dẹp chỗ nằm của mình, cầm y bát, không gọi thị giả, không tin cho
chúng tăng biết, một mình ra đi, không có ai theo cùng.[3]
Những gian khó từ bên ngoài
Với lòng từ bi, vị tha rộng lớn, Đức
Phật luôn có tâm bao dung và hài hòa đối với các truyền thống tôn giáo khác khi
Ngài tuyên bố ta không tranh chấp với thế gian.Tuy nhiên, các tôn giáo, các triết
thuyết vẫn tìm cách chống đối Ngài dưới nhiều hình thức. Có lần Ngài đi đến Thuna,
một làng bà-la-môn. Dân chúng nghe tin, đem trấu và cỏ lấp hết miệng giếng để
cho Ngài không có nước để uống.[4] Ngày nay, tăng ni xuất gia thường được đón tiếp nồng
hậu và được tôn trọng quý mến, chứ thời Đức Phật, ngay cả Ngài và chư đệ tử
không phải lúc nào cũng được như vậy. Sự kỳ thị, đố kỵ của các ngoại đạo lắm
khi làm Ngài thêm nhọc nhằn, nhưng Ngài không sờn lòng nản chỉ. Ngài biết căn
tánh chúng sanh và trải lòng từ đến tất cả. Trong kinh kể lại rằng, thuở xưa,
khi Đức Phật và chư tăng đang du hành trên đoạn đường từ Rajagaha đến Nalanda,
Ngài và chư đệ tử gặp Suppiya, du sĩ ngoại đạo dùng đủ cách để hủy báng Phật,
Pháp, Tăng, còn đệ tử của du sĩ ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta, lại
dùng vô số phương tiện tán thán Tam bảo. Đức Phật bất động và dạy chúng
tăng không vui mừng khi được khen, không tức tối khi bị chê mà phải xét coi lời
khen chê ấy đúng hay sai.[5] Với
lòng kiên định, thực hiện mục đích ban vui, cứu khổ cho đời, Ngài bất chấp.
Ngài từng nói: “Ta không tranh cãi với ai ở đời.”[6]
Không những Đức Phật chỉ trải qua
những gian khó trong những năm tháng chưa thành chánh giác mà sau khi thành đạo,
trên cuộc đời du phương hoằng hoá đạo giải thoát, Đức Phật cũng gặp nhiều vất vả
khi chọn nếp sống vân du làm sự nghiệp lợi sanh. Tuy nhiên, đối với Ngài, một
người có đời sống nội tâm định tĩnh, luôn sống và làm việc không mệt mỏi vì lợi
ích cho người khác, khó khăn nào rồi cũng qua.
Theo kinh điển Pali, điều đầu tiên
sau khi chứng đắc đạo mầu là Đức Phật trải qua một chặng đường dài từ Bodhgaya
đến Benares để trình bày những gì Ngài vừa chứng ngộ với năm người bạn cũ đồng
tu. Sau khi thuyết hai bài pháp đầu tiên, “Kinh Chuyển pháp luân” và “Kinh vô
ngã”, năm vị này chứng quả A la hán. Tiếp đó, Ngài độ cho Yasa và các người bạn.
Thế là với 60 vị tỳ kheo đầu tiên, Đức Phật thành lập nên tăng đoàn. Với tinh
thần “ra đi, vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông”, Ngài đã
khuyến khích những người đệ tử đầu tiên này ra đi, mỗi người một ngả, để truyền
giảng giáo lý giác ngộ cho mọi người, vì sự an lạc cho số đông.[7]
Với bức thông điệp đó, Đức Phật
cùng chư đệ tử không mệt mỏi trên bước chân du hoá. Phạm vi hoạt động chính của
Đức Phật lúc bấy giờ thuộc hai bang Bihar và Uttar Pradesh ngày nay. Những gì
được trình bày trong kinh điển Pali cho chúng ta biết rằng Đức Phật chủ yếu
tới lui, qua lại nhiều lần ở các thành phố Savatthi, Vesali và Kosambi. Vào thời
xưa, đường sá Ấn Độ chủ yếu là đường đất. Thế là ngập bụi vào mùa hè cháy
bỏng và lầy lội sình bùn vào mùa mưa, rét buốt đến tái tê vào mùa đông lạnh
giá. Thêm vào đó là những toán cướp thường xuyên rình rập chặn các ngả đường,
nhất là đoạn đường từ Savatthi đến Sakheta.[8]
Trong khi người dân thời đó chỉ đi xa, vượt khó khi nào có công việc thật sự cần
thiết, còn Đức Phật, Ngài không quản bao khó khăn, luôn luôn ra đi, vì nghĩ đến
sự an lạc cho nhiều người.
Trong một năm, chỉ có ba tháng an
cư mùa mưa Ngài dừng chân một chỗ cùng chư tăng tinh chuyên tu tập, chín
tháng còn lại Ngài luôn trên đường du hoá. Dù thời tiết có khi lạnh khi nóng,
trời có lúc nắng lúc mưa, Ngài vẫn tinh cần, luôn đến với mọi người để đem bức
thông điệp cứu khổ trao gởi cho đời. Địa bàn Đức Phật đi lại trong suốt cuộc đời
hành đạo có nhiều sông, thuyền bè đi lại tấp nập, tuy nhiên, vì mục đích giáo
hoá, để tạo điều kiện cho nhiều người được gặp, Ngài chỉ đi bộ. Không thấy nơi
nào trong kinh đề cập đến Đức Phật đi xe, ngựa gì cả. Cứ thế, đầu đội trời chân
đạp đất, tay ôm bát đất, đơn giản mà oai nghiêm, Đức Phật dấn thân vào chốn bụi
trần.
Đi để mà đi…
Kinh sách ghi lại những cuộc hành
trình của Đức Phật có thể giúp chúng ta hình dung lại những nơi mà Ngài đã đặt
chân đến. Ví dụ trong 12 tháng đầu tiên sau khi thành đạo, Ngài đi từ Uruvela đến
Isipatana qua Gaya và Benares, trải qua ba tháng mùa mưa tại đấy rồi sau đó đến
Rajagaha qua Benares, Gaya, Uruvela và Lativanna. Từ những nơi xác định này,
chúng ta có thế tính được Ngài đã đi bộ như vậy ít nhất là hơn 300 km trong mỗi
chuyến đi. Chuyến đi dài nhất của Đức Phật là khi Ngài khởi hành từ Rajagaha đi
Vesali, rồi từ Vesali đi Savatthi rồi sau đó về lại Rajagaha đi qua Kitigiri và
Avali, cả vòng đi vòng về khoảng chừng 1600 km.[9]
Tuy nhiên, kinh không đề cập đến cuộc du hành này cũng như bao cuộc du hành
khác mất bao nhiêu thời gian. Chỉ biết rằng, sau mùa an cư Ngài ra đi và liên
tiếp trên bước chân không ngừng nghỉ, du phương khắp nơi và chỉ trở về đủ kịp
cho mùa an cư tiếp mà thôi.
Theo kinh Đại Niết Bàn,[10] Đức Phật bắt đầu chuyến du hành lần cuối cùng từ
thành Rajagaha đến Kusinara qua Nalanda, Patna và Vesali. Đoạn đường dài khoảng
300 km. Kinh ghi rằng Đức Phật rời Vesali vào cuối mùa mưa an cư (tháng 10) và
Ngài đến Kusinara và nhập Niết Bàn vào ngày trăng tròn tháng Vesak (tháng 5).
Như vậy là Ngài mất 7 tháng để đi một đoạn đường 95 km. Có lẽ lúc này Ngài đã
già yếu nhiều. Tuổi đã 80. Do vậy, từ Pava về Kusinara chỉ chừng 10 km, Đức Phật
dừng nghỉ 25 chỗ trên dọc đường đi. Tuy nhiên, Ngài luôn thong thả trên
những đoạn đường đi qua. Hễ ai có thắc mắc gì, Ngài ân cần dạy bảo, giải đáp
thoả đáng cho họ, vì mục đích của Ngài không phải là đi để đến một địa điểm nào
đó mà là đi để giảng dạy giáo pháp cho người.
Mỗi ngày Ngài thức dậy rất sớm, trước
khi mặt trời mọc. Ngài đi đến một ngôi làng gần chỗ trú ngụ để khất thực. Sau
đó Ngài thọ trai, rồi tìm một nơi vắng tĩnh toạ một lát. Thế đấy, Ngài ra đi, mặc
cho cái nắng chói chang như đổ lửa trên đầu, Ngài vẫn cứ kiên trì giữa bụi đường
mù mịt. Mãi cho đến chiều tối, Ngài dừng bước nghỉ ngơi. Nếu có ngôi làng hay
ngôi rừng nào gần đấy có thể nghỉ tạm qua đêm, Ngài nghỉ ở đấy.
Ngài trú lại một nơi nào đó trong
thời gian dài hay ngắn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: dân làng có nhiều vấn đề thắc
mắc muốn hỏi Ngài hay không; người ta đến nghe pháp đông không; thức ăn và nước
uống có khan hiếm lắm không, môi trường có thuận tiện không. Có nhiều lúc Ngài
đi đến những nơi hẻo lánh, nơi thức ăn khan hiếm, không tìm ra nước uống, không
tìm được chỗ che thân, nhưng có người cần sự có mặt của Ngài, thế là lòng từ bi
của Ngài vượt qua mọi chướng ngại. Đường sá nhiều đoạn vô cùng gian nan hiểm trở. Thế
nhưng với tâm kiên định, với lòng từ mẫn, thương chúng sanh khổ đau như người mẹ
thương đứa con duy nhất của mình, Ngài đã không từ gian khó, không quản nhọc nhằn,
luôn đi đến từng hang cùng ngõ hẻm, giảng đạo mầu cứu khổ nhân sanh. Luật có
ghi rằng trong lần đầu tiên đến thành Rajagaha, Đức Phật đã rút ngắn thời gian
lưu lại vùng này khi dân chúng phàn nàn vì quá nhiều người nam bỏ gia đình đi
theo Ngài làm tỳ kheo.[11]
Điều này phản ánh sự linh động, tuỳ cơ ứng biến của Đức Phật trên đường vân du
của Ngài.
Du phương vì tâm từ đối với nhân gian
Đức Phật luôn duy trì cuộc sống du
phương trong suốt cuộc đời hành đạo của Ngài. Với cách giảng dạy này, người
nghe, người học sẽ tiếp thu tốt hơn, hiểu pháp nhanh hơn và thực hành đạt kết
quả hơn qua sự tiếp xúc trực tiếp với Ngài. Rất nhiều bài kinh diễn tả, ngay
sau khi nghe pháp, thính chúng tại pháp hội ấy chứng quả thánh, có lẽ phần nào
nhờ vào cách tiếp cận dân chúng trong tinh thần hòa đồng này. Chỉ cần thấy Ngài
trong tư thái thong dong của một bậc giải thoát, lòng người đủ an tịnh rồi. Với
oai lực nhiệm mầu, với tâm từ ái vô biên, với khả năng thấu hiểu mọi trình độ
căn cơ của thính chúng, lời dạy của Ngài có tác dụng rất lớn trong việc
đánh động tâm thức người nghe. Do đó, chỉ bằng cách du phương hoá đạo, Ngài mới
tạo được nhiều cơ hội cho dân chúng gặp gỡ Ngài.
Là một bậc giáo chủ, song vì chọn nếp
sống không nhà rày đây mai đó “cô thân vạn lý du”, Đức Phật vẫn mãi đi giữa bụi
trần, chịu vất vả nhiều mặt. Thời ấy có một số Tinh xá, nổi tiếng nhất là
Jetavana và Veluvana, có điều kiện sinh hoạt rất phù hợp cho đời sống thanh bần
của người xuất gia, Ngài cũng chỉ trú lại đây trong các mùa mưa an cư mà thôi.
Một khi ra đi, những tiện nghi trong sinh hoạt lắm lúc không sẵn có. Có khi
Ngài ngủ trong trong một lều cỏ, có lúc tiện đâu ngả lưng đấy. Có lần Ngài ngủ
trên một thảm cỏ trải trong nhà làm đồ gốm của ngoại đạo Bharadvaja.[12] Dịp khác, khi Ngài đang ở Kapilavatthu, Ngài không tìm
được chỗ ngụ, đành trải một tấm vải trên nền đất trong am của du sĩ Bharanda để
nghỉ đỡ qua đêm.[13] Thường thì Ngài phải nghỉ đêm trong các vườn xoài như
những vườn xoài ở miền Bắc Ấn chúng ta thấy hiện nay. Có dạo ở Alavi, thấy
Ngài ngủ trong cảnh màn trời chiếu đất, lót lá trong rừng nghỉ lưng như vậy
trong tiết mùa đông lạnh giá, hoàng tử Hattaka tình cờ gặp Ngài hỏi Ngài có cảm
thấy an lạc không. Ngài đáp: “Đúng, ta sống rất an lạc, ta rất hài lòng. Và
những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy”.[14]
Những gì Đức Phật nói và làm chứng
tỏ Ngài vui với tâm thanh thoát, tâm không nhuốm bụi trần. Tâm Ngài an lạc thì
có sá gì cái không tiện nghi của điều kiện bên ngoài, cái khó khổ về vật chất.
Cái khổ của tham ái, cái khổ nhiệt não cột trói chúng sanh vào vòng sanh tử mới
thật là khổ. Khổ không thấy được bản chất như thật của vạn pháp để rồi trôi lăn
trong vòng luân hồi vô tận mới là đáng nói. Do đó, dù đang trong tiết mùa
đông, tuyết rơi phủ đất, Ngài chỉ lót lá đơn sơ vừa đủ cho một chỗ nằm. Gió lùa
từng cơn, từng cơn trong rừng thưa lá, với tấm vải cà sa mỏng manh, Đức Phật vẫn
sống an lạc vì Ngài có cái an của giải thoát, cái lạc của nội tâm không bị tham
ái thiêu đốt và đó là hạnh phúc tối thượng ở đời. Còn đối với những người sống
trong nhà cao cửa rộng, kín cổng cao tường, nằm trên nệm êm gối ấm, kẻ hầu người
hạ, vợ đẹp con xinh, có vui gì đâu khi bị tham sân si đốt cháy suốt ngày đêm
không lúc nào ngừng nghỉ?
Chính nếp sống vân du, thanh bần,
giản dị này có sức cảm hoá mãnh liệt, là bài pháp sống động cho mọi người. Những
lời đối đáp của Đức Phật với hoàng tử Hattaka là tiếng chuông đánh thức, không
chỉ cho người trực tiếp nghe Ngài trả lời mà cho tất cả chúng ta. Khái niệm “khổ”,
“vui” theo cái nhìn của phàm phu thật giới hạn, nhỏ hẹp trong các nhu cầu vật
chất thế gian và những thú vui trần tục. Chỉ có những bậc giải thoát giác ngộ mới
hướng đến sự an lạc thật sự của nội tâm. Do đó, Ngài từng nói, đời sống gia chủ
đầy những chướng ngại. Con đường đầy bụi trần. Đời sống xuất gia phóng khoáng
như gió thoảng hư không.[15]
Quan điểm “ra đi, vì sự an lạc cho
số đông, vì hạnh phúc cho số đông” là sợi chỉ thắm xuyên suốt trong suy nghĩ và
hành động của Ngài trong suốt 45 năm hành đạo không có một phút giây ngơi nghỉ.
Ngài biết mọi người cần sự có mặt của Ngài, cả gia chủ cư sĩ và tăng ni xuất
gia, nhất là những người mới nhập đạo. Ngài thường cân nhắc: “Ta đã củng cố
được chúng tỳ kheo vững mạnh. Tuy nhiên, có một số tỳ kheo mới xuất gia,
sống trong pháp và luật chưa được bao lâu. Nếu những người này không thấy ta,
tâm họ có thể thay đổi, như con bê, nếu không thấy mẹ, có thể thay đổi; như hạt
giống non, nếu không có nước, có thể thay đổi. Trước đây ta đã từng giúp đỡ
chúng tỳ kheo thế nào, thì nay đối với những vị mới vào đạo này, ta cũng sẽ
giúp đỡ như vậy.”[16] Do
đó, Ngài thường xuyên lui tới, nhắc nhở những vị tỳ kheo mới. Những vị mới xuất
gia chưa có duyên may diện kiến Đức Phật rất khát khao được thấy Ngài.[17]
Chư tỳ kheo lâu ngày không được gặp Ngài, họ cũng mong mỏi không kém. Hễ có cơ
hội là họ cùng nhau đến đảnh lễ Ngài. Có khi một nhóm đông đến 500 vị tỳ kheo
đi từ đường xa đến yết kiến Ngài.[18]
Không lúc nào ngừng nghỉ, Ngài vẫn
tiếp tục ra đi, ngày đi đêm nghỉ. Có khi Ngài đi qua một vùng, sau một thời
gian lâu, lắm lúc mấy năm, Ngài mới có dịp quay trở lại. Do đó, mỗi lần dân
chúng được gặp Ngài, họ vui mừng hơn cả trời nắng hạn nhiều năm có được cơn
mưa. Khi Ngài sắp ra đi, họ buồn rầu không biết khi nào Ngài quay trở lại để được
gặp Ngài, nghe pháp. Họ trông mong được nhìn thấy hình bóng an tịnh của Ngài ,
bất cứ khi nào, ở đâu. Một lần, có hai người thợ mộc, khi nghe tin Ngài sắp đi,
họ đến thưa: Khi Thế Tôn sắp rời khỏi Savatthi để du hành đến xứ Kosala, chúng
con cảm thấy không hoan hỷ, buồn rầu, nghĩ rằng: Thế Tôn sẽ ở xa chúng con. Khi
Ngài đi khỏi, chúng con cũng buồn rầu vì Ngài đã ở xa chúng con.[19]
Có khi nhiều nhóm người từ những
nơi xa đến viếng Đức Phật. Có một lần khi Đức Phật đang ở tại Vesasli, một nhóm
bà la môn từ Magadha, một nhóm khác từ Kosala, có cả người Licchavi cùng đến yết
kiến Đức Phật. Gặp lúc Ngài đang chỉ tịnh, họ đợi đến khi yết kiến được Đức Phật,
nghe được pháp rồi mới chịu đi.[20] Mọi
người đều mong muốn được diện kiến Ngài, nhưng làm sao Đức Phật có thể cùng một
lúc có mặt ở mọi nơi? Thế là nghĩ đến họ, Ngài cứ tiếp tục ra đi. Ngài đến rồi
đi như cánh chim ngàn, lắm lúc người ta không biết chính xác Ngài đang ở
đâu. Một ví dụ sống động trong kinh đó là 16 người đệ tử của du sĩ
Bavari, đang trú tại miền Bắc Ấn, muốn diện kiến Đức Phật. Ban đầu, họ nghe tin
Đức Phật đang trú tại Savatthi, họ “bện tóc, mặc áo da thú”, băng qua Kosambi
và Saketa, thẳng đến đó để yết kiến Ngài. Đến nơi, họ biết Đức Phật vừa rời khỏi
Savattthi. Họ lần theo lộ trình Ngài đi, qua Setavya, Kapilavatthu, Kusinara,
Pava và Vesali. Cuối cùng họ gặp được Ngài ở đền thờ Pasanaka. Niềm vui mừng của
họ khi gặp Ngài được diễn tả “giống như người khát nước gặp được nguồn nướt
trong mát; giống như người đi buôn được món lời lớn; giống như đang trên đường
nóng bức gặp được tàn cây mát.” [21]
Dấn thân đi giữa bụi trần, Đức Phật đã thiết thực đem lại lợi ích an vui cho nhiều người. Chính cách du hành tuỳ duyên hoá đạo như thế, Ngài làm chiếc cầu nối cảm thông cho bao con người đau khổ tìm về nẻo sáng. Chính sự vân du đây đó như mây ngàn gió nội, Ngài là ánh dương chiếu rọi nhân gian cho ánh sáng ngập tràn giúp bao người thoát khỏi rừng mê u ám. Chính cách du phương, Ngài là hiện thân của trí tuệ và từ bi đi vào cuộc đời để đưa bao người qua biển khổ trầm luân. Chính sự dấn thân, coi thường gian khó, Ngài đã san bằng được những hố thẳm bất công trong xã hội mà chiếc gông phân biệt giai cấp đã nghiệt ngã đè lên đầu người dân Ấn Độ vào thời bấy giờ. Ngay từ lúc thành đạo đến giây phút cuối cùng trước khi vào Niết Bàn, Ngài luôn trên bước chân du hoá, thực hiện chu toàn bức thông điệp cứu khổ ban vui cho đời. Gương hạnh của Ngài, vượt không gian vô tận, thời gian vô cùng, luôn tỏa sáng trên vạn nẻo đường từ ngàn xưa mãi đến ngàn sau.
[1] Kinh Phật tự thuyết, chương Chương 8, Phẩm Pātaligāmiya, mục VII(Ud. 90)
[2]
Kinh Tương ưng , tập I, chương I, phẩm 4,mục 8: Miếng đá vụn.
[3] Kinh Tương ưng, tập III, Chương
I, mục 9: Parileyya
[4] Kinh Phật tự thuyết, Chương 7, phẩm
Nhỏ, mục IX (Ud.78)
[5] Kinh Trường bộ , tập I, Kinh số 1: Kinh Phạm võng
[6] Kinh Trung bộ, tập I, Kinh số
18: Kinh Mật hoàn
[7] Luật tạng, tập IV, tr 20
[8] Luật tạng, tập IV, tr 87
[9] Luật tạng, tập IV, tr 189
[10] Kinh Trường bộ, tập I, số 16:
Kinh Đại bát Niết Bàn.
[11] Luật tạng, tập IV, tr 43
[12] Kinh Trung bộ, tập II, số
75: Kinh Magandiya
[13] Kinh Tăng chi, tập I, chương 3
pháp, phẩm 13, mục 124: Bharandu
[14] Kinh Tăng chi bộ, tập I, chương
3 pháp, phẩm 4, mục 34: Về Alavì
[15] Kinh Trường bộ, tập I, số 2:
Kinh Sa môn quả
[16] Kinh Tương ưng bộ, tập III, mục
8: Người khất thực
[17] Kinh Phật tự thuyết, phẩm 5,mục 6
(Ud. 57)
[18] Kinh Trung bộ, tập II, số 67:
Kinh Catuma
[19] Kinh Tương ưng, tập V, Chương
11: Tương ưng dự lưu, mục 6: Các người thợ mộc
[20] Kinh Trường bộ, tập I, số 6: Kinh
Mahali
[21] Kinh Tập, chương 5, phẩm Con đường
đến bờ kia, kệ 1006-1014