Trong mọi hoạt
động, quyết định của mình, con người đều vận dụng hai phương diện: lý trí và
tình cảm. Khi cần tìm giải pháp cho một vấn đề, người ta cần đến lý trí, trong
khi đó, tình cảm là sự thấu cảm, thông cảm, quan tâm, chăm sóc, tạo sợi dây
liên kết giữa con người với nhau. Ví như một người thầy thuốc, dùng lý trí để
chữa trị và dùng tình cảm để chăm sóc bệnh nhân.
Lại như các quan
tòa, khi xem xét các tình tiết sự việc, cần sử dụng lý trí, nhưng khi định tội
để tuyên án, cần xét đến các phương diện nhân thân của người ấy, hoàn cảnh thực
tế và nhất là thái độ của người ấy trước tòa là biểu hiện lòng nhân đạo của
mình đối với người phạm tội. Đây là lúc người quan tòa sử dụng tình cảm để rồi
tội được tuyên dựa trên cơ sở xem xét cả lý và tình vậy. Phương diện lý trí nếu
thể hiện hợp lý được xem là “tài” và tình cảm nếu biểu hiện phù hợp được xem là
“đức” của một con người và khi giải quyết vấn đề, nếu căn cứ và sử dụng hợp lý
cả hai phương diện này gọi là “thấu tình đạt lý”. Trong cuộc sống xã hội, chúng
ta cần lắm sự thể hiện hợp lý và cân bằng giữa hai phương diện này để xây dựng
một xã hội công bằng, văn minh và đầy tình người.
Nói đến suy nghĩ,
người ta thường nghĩ đến chức năng đặc trưng của khối óc (lý trí). Tuy nhiên,
cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề phản tác dụng nhất – thay vì tháo gỡ vấn đề
thì làm cho vấn đề rối thêm lên – là suy nghĩ và giải quyết vấn đề bằng con tim
đầy cảm tính. Suy nghĩ cảm tính là khi chúng ta để tình cảm dẫn dắt suy nghĩ
của mình, thay vì căn cứ vào các sự kiện thích hợp để tìm giải pháp tháo gỡ vấn
đề và định hướng cuộc sống. Đó là lúc chúng ta sử dụng cảm giác để lý luận,
khiến cảm tính trở thành yếu tố quan trọng khi đưa ra những quyết định thay vì
lý trí. Để cảm tính len vào chiếm vị trí ưu thế trong quyết định của mình có lẽ
là một đặc điểm của người Việt chúng ta vốn chịu nhiều ảnh hưởng trong cách nghĩ
của con người thuộc nền văn hóa lúa nước, hễ “thích là làm”.
Lúc nhỏ, thường chúng ta thích, thương và quý cô giáo nào đẹp hơn là cô giáo dạy giỏi. Ngay cả khi trưởng thành, ta dễ dàng chấp nhận người làm ta hài lòng với những “tài lẻ” hơn là kỹ năng chuyên môn. Từ đây, thật chua chát khi hiện thực xã hội ngày càng khẳng định tuyên bố “bằng lòng hơn bằng cấp” là đúng! Trong cuộc sống, hầu hết mọi người sẽ dùng nhiều cảm quan hơn khi tuyển chọn nhân viên, mướn một người làm vườn hay việc hệ trọng hơn như chọn bạn đời.
Lúc nhỏ, thường chúng ta thích, thương và quý cô giáo nào đẹp hơn là cô giáo dạy giỏi. Ngay cả khi trưởng thành, ta dễ dàng chấp nhận người làm ta hài lòng với những “tài lẻ” hơn là kỹ năng chuyên môn. Từ đây, thật chua chát khi hiện thực xã hội ngày càng khẳng định tuyên bố “bằng lòng hơn bằng cấp” là đúng! Trong cuộc sống, hầu hết mọi người sẽ dùng nhiều cảm quan hơn khi tuyển chọn nhân viên, mướn một người làm vườn hay việc hệ trọng hơn như chọn bạn đời.
Không chỉ người phương Đông nặng cảm tính trong quyết định, mà cả người phương Tây cũng xử sự theo cách như thế. Người ta dùng cảm
tính làm cơ sở để quyết định ngay cả việc liên quan đến chính trị. Ví dụ vào
ngày 9 tháng 9 năm 2004, sau khi Florida
bị một cơn bão tàn phá, nhân lúc Tổng Thống George W. Bush cùng nhiều người phân
phát những túi nước và nước đá cho đoàn người xếp hàng chờ đợi trong dòng xe cộ
nối dài. Khi hỏi về cảm nghĩ của họ trước cử chỉ ấy của tổng thống, một người trả
lời, “Tôi rất ngạc nhiên khi nhận được túi nước đá từ tổng thống. Không thể tin
được chính tay tổng thống nước Mỹ đã phát cho tôi một túi nước đá. Tôi sẽ dành
cho ông ấy một lá phiếu trong kỳ bầu cử sắp tới.” Một hành động đơn giản đã gây
ấn tượng nơi người đàn ông, và khiến ông ta vững tin trong sự lựa chọn của
mình. Suy nghĩ cảm tính là thế đấy: “nếu ông ta có thể đưa cho tôi một
túi nước đá, tôi sẽ bầu ông ta vào vị trí cao nhất và quyền lực nhất của đất
nước.” Tại sao chúng ta không thể dùng tiêu chuẩn cao hơn trên cơ sở của lý trí
để đưa ra quyết định, thay vì dựa vào một ấn tượng chỉ lưu lại trong giây lát
chỉ vì “tôi thích”? Đây là lối lý luận theo cảm tính và có thể gây ra
nhiều trở ngại và có khi để lại hậu quả nghiêm trọng không thể sửa được.
Chúng ta thường
quyết định dựa vào tình cảm hơn là lý trí, lý luận và sự kiện. Chúng ta thường
tưởng và ngỡ rằng quyết định của mình dựa trên lý luận và sự hợp lý, nhưng điều
này chẳng mấy khi đúng. Hành động theo cảm tính là làm theo sự chỉ đạo của cảm
xúc: thích hay không thích, chứ không quan tâm nhiều đến tính logic, hợp lý của
vấn đề. Lợi dụng tâm lý sống thiên nặng về cảm tính, nghe là tin, không
cần đúng sai của số đông, nhiều người ác ý, thâm độc và mưu mô đã biết khai
thác thế mạnh tâm lý đám đông theo kiểu “folk psychology” của quần chúng để
xuyên tạc, để vu khống, để dìm hàng kẻ khác nhằm phục vụ cho mưu đồ toan tính
của họ. Ngay cả những người nhân danh hiền nhân, đạo đức, tự nhận mình, hay chí
ít cũng tạo ra một cái persona để người khác hiểu mình có tầm, có cỡ mà vẫn
quyết định và hành động theo cảm tính, bất chấp chân lý, không quan tâm sự
thật, chẳng nghĩ gì đến nhân quả cả.
Trong khung cảnh ở xã hội ta, chân lý chưa trở thành một đức
hạnh trong sinh hoạt tư tưởng cũng như sống thực. Tôi nói vậy là nhân danh sự
trải nghiệm cuộc sống thực tế đầy sống động và lắm tái tê của bản thân tôi cũng
như tri thức của mình trong hơn hai phần ba đời người (nếu quy ước nôm na 60 tuổi
là một đời) với những gì đã chạm, gặp, thấy … đến phát ngấy (chán)!
Ừ thì cũng phải
thôi. Chả trách gì, con người là vậy! Hạch hạnh nhân, trung tâm điều khiển cảm
xúc trong não chúng ta cũng như của loài vật, đã ra đời nhiều triệu năm trước so
với phần tác động suy nghĩ và lý trí – tức là vỏ não của con người mà! Vì thế,
cơ sở sinh học sẽ giải thích vì sao khi chúng ta sợ hãi hay ngạc nhiên, chúng
ta không nói được nên lời. Tình cảm mạnh hơn và đã lấn át và khống chế các
trung tâm nhận thức ngôn ngữ của não, nên khi quá ngưỡng, lý trí bị đóng băng
tạm thời và chỉ có cảm tính tăng tốc mà thôi.
Chính vì phận sự
của lý trí bị cảm tính “cướp diễn đàn” nên con người bình thường vẫn phải gánh
chịu khổ đau do chính mình gây ra dù trên cơ sở lý luận, chúng ta hiểu, thậm
chí hiểu rõ mối tương quan nhân quả của vấn đề. Biết là một việc, làm là một
việc hoàn toàn khác, vì khi thực hành, ý chí, nghị lực, bản lĩnh là những điều
kiện cần thiết để thực thi thì ta lại không phát huy. Lý do? Buông xuôi theo
bản năng là chìu theo cái tánh hoang dã, rừng rú của mình; còn một khi lý trí
huy động ý chí, nghị lực và bản lĩnh thì tạo nên một xung lực gây đau đớn,
không dễ chịu cho chúng ta.
Nhà phân tâm học Sigmund
Freud đã rất đúng (một trong vài thứ ông đã đúng bên cạnh nhiều cái chưa đúng
trong chủ trương học thuyết của ông), khi nói rằng chúng ta có động lực bẩm
sinh là thích tránh xa sự đau đớn và hướng đến sự hưởng thụ. Chúng ta không
muốn huy động ý chí, nghị lực và bản lĩnh, một phần vì chúng ta muốn tránh sự
đau đớn, vất vả hay khó khăn của công việc để chìu theo tánh ý một cách bản
năng vì chúng cho ta cảm giác thoải mái, sung sướng, thỏa mãn và hưởng thụ. Ăn
thoải mái dễ dàng hơn ăn kiêng và nằm dài ngủ nướng sướng hơn là vận động tập
thể dục. Hút thuốc cũng dễ hơn là từ bỏ nó. Nhậu nhẹt và những hành vi buông
thả khác dù sao cũng dễ dàng hơn là đối mặt với khó khăn khi kềm chế, chuyển
hóa tâm với những cám dỗ trong đời sống hiện đại. Rõ ràng, chúng ta biết cái gì
tốt hơn, nhưng ta không khôn ngoan hơn
nên không thể làm theo cái tốt, luôn có những quyết định sai lầm và do đó, hiệu quả không tốt hơn hoặc có vấn đề.
Nghệ thuật sống
tốt, sống bình an là đừng để cảm tính “lấn sân” lý trí khi quyết định vấn đề.
Hãy huy động các yếu tố ý chí, nghị lực, bản lĩnh, lòng kiên nhẫn và biết nhìn
sâu trong mối tương quan nhân quả và lực tác động đa chiều của các điều kiện
bên ngoài để biết, quản lý, điều khiển và làm chủ cảm xúc trong cuộc sống của
mình. Chánh niệm tỉnh giác trong thiền định của Phật giáo sẽ giúp chúng ta
nhiều trong quá trình này. Chỉ khi nào bắt tay vào thực hành, ta mới thấy được
giữa “cái biết” (tri) với “cái làm” (hành) nó “trật rơ” thế nào và cũng chỉ qua
thực hành, chúng ta mới biết cách cần điều chỉnh gì và điều chỉnh ra sao để
cuộc sống có chất nhất và trọn vẹn
nhất trong thời gian ghé trạm “cuộc đời”!