Wednesday, September 17, 2014

Một Tuần Khoa Học Yên Lặng (Kỳ 1)


Hôm nay, sắp xếp một số file trong máy, tình cờ gặp bài dịch này, mình dịch từ lâu lắm, mà chưa chia sẻ ở đây. Hồi mới dịch xong, mình có gởi chia sẻ với một người bạn nhờ đọc lại bản dịch. Sau khi đọc và chỉnh sửa một vài chỗ cho sáng ý, bạn mình ghi comment rằng “Trong các sự chia sẻ, chia sẻ bài viết này, chia sẻ lời dịch này, chia sẻ những ý tưởng này, chia sẻ dòng ý thức này, chia sẻ dòng tỉnh thức này làm mình hài lòng hơn hết!” Nay đọc lại dòng comment này, mình quyết định share bài này trên blog. Bài viết dài, nên mình chia ra thành nhiều entry cho dễ đọc.


Trân trọng,


Hằng Như


Một Tuần Khoa Học Yên Lặng
Thanh lặng tâm và giải thoát cái tôi
(Dịch từ “A Week of Silence
Quieting the Mind and Liberating the Self”)
của Daniel Siegel,  bác sĩ tâm thần học.
(Bài đăng trong Tạp chí Psychotherapy Networker, số 6, tập 30, năm 2006)

Từ Los Angeles, tôi bay đến Boston để tham dự khóa tu một tuần, và tôi cảm thấy hơi lo. Trong bảy ngày tới đây, tôi sẽ ngồi trong yên lặng giữa 100 nhà khoa học khác tại Hội thực hành thiền quán ở Barre, Massachusetts. Khóa thực tập này do Viện Tâm và Cuộc sống, - một tổ chức chuyên tiến hành các công trình nghiên cứu khoa học về tỉnh thức và tâm từ - tài trợ. Đây là một sự kiện độc đáo, vì chưa bao giờ có 100 nhà khoa học quy tụ về và cùng nhau ngồi trong yên lặng suốt một tuần để học “thiền tỉnh thức.” thư thế này. Hầu hết họ là những người chuyên nghiên cứu về bộ não.

Tôi biết rằng dạy thiền tỉnh thức cho mọi người có tác dụng giúp cho thân tâm họ khỏe mạnh. Tại trung tâm Thiền tỉnh thức trường đại học California tại Los Angeles, chúng tôi mới tiến hành một nghiên cứu thí điểm tám tuần. Nghiên cứu này cho thấy rằng, dạy thiền cho những người có các chứng bệnh liên quan đến di truyền như rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) ở cả người lớn và trẻ vị thành niên, có thể giảm mức độ phân tán tinh thần và hành động theo bản năng một cách đáng kể.

Tuy nhiên, tôi vẫn chưa có nền tảng gì về thiền cả. Tâm tôi luôn bận rộn, chạy rông ít nhất là trên mười trục quay và ai cũng biết tôi không phải là người ít nói.

Tôi nói với một người bạn về khóa thực tập yên lặng sắp tới, thì anh ta bảo rằng, với anh, nói chuyện với mọi người là mạch sống, và giao tiếp với người, qua lời nói, biểu cảm của ánh mắt, gần gũi trò chuyện, làm cho cuộc sống của anh có ý nghĩa. Tôi nói, tôi cũng vậy thôi. Làm thế nào có thể ngồi hoàn toàn yên lặng trong nhiều lần ngồi lâu, suốt một tuần như thế, mà không giao tiếp với bất cứ ai bằng ngôn ngữ cũng như phi ngôn ngữ (đã được thỏa thuận) như vậy? Tại sao tôi lại làm như vậy? Tôi tự hỏi, liệu rút lui có còn kịp không?

Các nhà khoa học ngồi yên  

Tôi không chuẩn bị gì nhiều, ngoại trừ đem theo đồ lạnh và giày vì lúc này ở New England, nơi tổ chức sự kiện này, đang là mùa đông, tiết trời rất lạnh. Có người khuyên tôi, điều tốt nhất trong khâu chuẩn bị là thu xếp tất cả công việc nhà và việc công sở đâu vào đó, để trong khóa tu yên lặng, tôi sẽ không cảm thấy còn nhiều việc trong thế giới đời thường thúc bách mình phải gọi điện thoại, trả lời điện thư hay thư. Là một chuyên gia tâm thần học thích nghiên cứu về bộ não và các mối quan hệ của nó, tôi không khỏi thắc mắc rằng điều gì sẽ xảy ra với các vùng xử lý ngôn ngữ ở bán cầu não trái của tôi khi chúng trở nên yên  lặng trong suốt thời gian thiền định? Chúng ta thấy biết và suy nghĩ về thế giới dưới dạng các mô hình thực tại khái niệm (models of conceptual reality) thông qua các khối thông tin bằng chữ và số được truyền đạt đến chúng ta.  Các mô hình thực tại khái niệm đó là một phần hoạt động của toàn bộ bộ não có chức năng tiếp nhận và đánh giá thông tin qua các giác quan một cách có trật tự.

Nhưng tôi lại nghĩ đến thơ – thơ là một hình thức sử dụng ngôn ngữ khác,  có thể hạn chế quá trình tổ chức các kinh nghiệm ở dạng thô trong khu vực nhận thức của bán cầu não trái một cách nghiêm ngặt, từ trên xuống. Thơ ca, giống như yên lặng, tạo nên một sự cân bằng mới giữa trí nhớ và giây phút hiện tại. Chúng ta nhìn với đôi mắt mới qua lăng kính thi ca; với sự tỏa sáng của ngôn ngữ, một kỳ quan mới, vốn bị lớp màn của ngôn ngữ thường ngày che phủ lâu nay, được hiện ra.. Ngôn ngữ thường ngày của chúng ta có thể là ngục tù, giam cầm chúng ta trong ngục tối của sự dư thừa, làm vẩn đục các giác quan, làm yếu đi sức tập trung của mình. Bằng cách thể hiện sự mơ hồ, cách sử dụng ngôn ngữ khác thường, sắp xếp các yếu tố của thực tại nhận thức lại với nhau theo cách kết hợp mới và gợi hình, nhà thơ và các thi phẩm đem lại cho chúng ta những khả năng cảm nhận cuộc sống mới mẻ và khác thường.

Có lẽ yên lặng trong tuần này sẽ cho tôi kinh nghiệm tương tự như vậy.

Ngày thứ nhất

Tôi đến Hội thực tập thiền quán, nơi chúng tôi sẽ cùng nhau trải qua một tuần lễ. Sau bữa ăn tối nhẹ, đi dạo, vệ sinh hằng ngày, và khi kết thúc bài nói chuyện mở đầu, chúng tôi sẵn sàng thực tập yên lặng. Mục đích là lặng vào thực tại chủ quan của chính tâm mình. Với vài hướng dẫn của người hướng thiền ở trung tâm, chúng tôi chìm sâu vào trong dòng nước của biển nội tâm. Hình thức thiền tỉnh thức mà chúng tôi đang học tuần này xuất phát từ cách thực hành thiền tuệ của Phật giáo từ 2500 năm trước, thường được hiểu là ‘thấy rõ.’ 

Vào ngày thứ nhất, chúng tôi học cách ngồi trong thiền đường với những hướng dẫn ngắn gọn chỉ là “hãy quán sát hơi thở.” Khả năng tập trung này là bước đầu tiên để thực tập tỉnh thức. Khi sự chú tâm của mình đi lang thang ngoài hơi thở, chúng tôi được hướng dẫn là cứ nhẹ nhàng đem sự chú tâm về với hơi thở. Chỉ vậy thôi. Cứ làm đi làm lại điều này như vậy. Tôi cảm thấy an lòng. Để xem thử nó khó như thế nào?

Thế nhưng đến cuối ngày thực tập năng lực tập trung của ngày thứ nhất, niềm tin của tôi rõ ràng lao dốc đến tận đáy. Tôi tưởng tôi làm được cái mà những người hướng dẫn gọi là ‘chú ý tốt,’ nhưng thật ra, tâm tôi chẳng chịu đi theo lời hướng dẫn là ‘chỉ chú tâm vào hơi thở’ và nó cứ lặp đi lặp lại như thế. Cứ sau một vài giây, dường như tôi không thể duy trì được sự tập trung trong một hơi thở mà không xen các suy nghĩ khác vào, chẳng khác nào một chú chó chạy theo hình chữ chi (ngoằn ngoèo) trên đường, dừng lại ngửi chỗ này chỗ kia do mùi hương dọc đường đi quyến rũ.

Các vị hướng dẫn bảo chúng tôi rằng rong chơi không ngừng là hiện tượng tự nhiên của tâm, và các vị ấy đề nghị rằng trong mỗi lúc, chúng tôi thử tập trung vào nửa hơi thở mà thôi: thở vô, xong, rồi đến thở ra. Thực tập như vầy có khá hơn một tí, nhưng rồi tâm tôi vẫn cứ tiếp tục rong chơi trên mọi nẻo. Theo người hướng dẫn, hiện tượng này đôi khi được gọi là “hiện tượng tán tâm,”  - tức là ý tưởng này nảy sinh kéo theo các ý tưởng khác nảy sinh. ‘Giải pháp’ cho vấn đề khó xử này, một khi chúng ta nhận thức rằng tâm chúng ta đã bị các ý tưởng tản mác chiếm cứ, là nhẹ nhàng tập trung trở lại hơi thở; cứ kiên trì làm như vậy, cứ làm, và làm, rồi tiếp tục làm như vậy, với tôi, dường như ít nhất cũng hàng ngàn lần, trong suốt một thời ngồi thiền 45 phút.

Sau thời ngồi thiền, chúng tôi đi thiền trong vòng nửa tiếng đến một tiếng. Trong khi đi, chúng tôi chú tâm vào cảm giác của bàn chân và phần dưới ống chân trong từng bước đi. Khi nhận ra tâm mình giong ruổi khỏi cảm nhận ở các bước đi, chúng tôi lại đem sự chú tâm trở về với bước chân. Cũng một vấn đề: tâm tôi có cái tâm riêng của nó và nó đi đâu tùy thích, chứ không phải đi đến nơi nào ‘tôi’ muốn nó đến.
  
Những lời hướng dẫn càng rộng hơn khi trọn ngày thứ nhất trôi qua. Chúng tôi nhận thấy rằng tập trung vào hơi thở sẽ phát triển bước đầu tiên của tỉnh thức. Đây là yếu tố nhằm hướng đến sự duy trì chú ý. Học cách tập trung vào sự chú ý, chúng ta có thể ngăn chặn dòng tư tưởng khó điều khiển vốn tuôn chảy không ngừng, đó là các khái niệm bao gồm các hoạt động của tâm thức. Và cách tập trung vào sự chú ý cũng giúp chúng ta tiếp xúc với các cảm thọ mà mình đang thật sự trải nghiệm. Cảm thọ là cửa ngõ đưa chúng ta đến với kinh nghiệm trực tiếp. Khi chúng ta có thể ‘chỉ’ thấy thôi, hay ngửi, nếm, xúc chạm và nghe thôi – năm giác quan đầu tiên của mình – là lúc chúng ta tiến vào địa hạt hiện hữu trong hiện tại, một địa hạt xa rời với tất cả những gì bận rộn trong tâm, vì tôi chỉ ngồi, và chỉ đi, và ngồi, rồi lại đi. Dường như kỹ năng tiếp xúc với cảm thọ  giúp chúng ta có khả năng cảm nhận mà không cần đến sự can thiệp của tư duy.

Ngày thứ nhất trôi qua vừa trống trải vừa căng thẳng. Yên lặng và không giao tiếp với người khác khiến tôi gần như nổi khùng. Tôi có xu hướng muốn liên hệ, nhưng ‘bị cấm’ nên không được liên hệ với bất cứ ai, bằng lời hay cử chỉ điệu bộ, bằng ánh mắt hay nét mặt biểu lộ sự giao tiếp. Đây là quy tắc để ngăn chặn chúng tôi không được giao tiếp nhau bằng bất cứ cách nào, và tôi cảm thấy một phần nào đó trong não tôi bị đau đớn khi làm ngơ không giao tiếp với nhiều người đang có mặt tại đây. Tôi bắt đầu tự nói với mình, không chỉ nói thầm trong đầu, mà nói lớn ra. Thậm chí tôi còn tự kể cho tôi nghe những câu chuyện vui rồi phá lên cười. Thế rồi tôi tự nói với mình ‘suỵt!’ khi sực nhớ ra quy tắc giữ yên lặng cao quý: không giao tiếp với bất cứ ai. Vậy thì với bản thân mình thì sao?

Trong khi thực tập, tôi cố gắng nhớ lại những gì tôi tự nói với mình trước khi điều này bắt đầu là “hãy xem mỗi hơi thở là một cuộc phiêu lưu.” Bây giờ, tôi nói với chính mình rằng “mỗi nửa hơi thở là một cuộc phiêu lưu.” Nhưng tôi đang dùng ngôn từ để nói điều này, và có khi những từ này trở thành kẻ thù, tức là những khái niệm tán tâm đã kéo tôi ra khỏi cảm thọ trực tiếp. Tôi bị sập bẫy rồi! Tôi cảm thấy bối rối. Tôi đang cảm nhận cảm thọ trực tiếp, tôi cảm nhận hoặc tôi suy nghĩ, nhưng tôi vẫn không từ bỏ những đối thoại có tính khái niệm, căn cứ trên ngôn từ đang diễn ra trong đầu. Các ngôn từ này tổng kết lại những gì tôi đang làm, như đang đi, đang ăn một quả táo thay vì cứ để cho tôi đang làm việc ấy. Như có người tường thuật nào đó trong người mình mà tôi không thể nào bỏ được. “Tiếp tục đi, cố gắng là chỉ uống sữa đậu nành thôi.” S-Ữ-A Đ-Ậ-U N-À-N-H, tôi đã đọc trên phim hoạt họa. Mấy con chữ nhảy múa trước mắt tôi như thể một người bạn lưu lạc lâu năm mới tìm lại được. Tôi thấy những con chữ này cũng hiếu động trong đầu khi tôi thực hành thời khóa ngồi và đi. Điều này làm cho tôi có cảm giác rằng tôi không phải “đang hành thiền trong tỉnh thức.” Có thể tâm trí tôi quá duy lý, chứa đầy các ý tưởng và câu hỏi, ngôn từ và quan niệm. 
(còn nữa)