La-hầu-la
(Rahula) là một vị đệ tử đặc biệt nhất của đức Phật, vì La-hầu-la không chỉ là
người đệ tử của đức Phật mà còn là người con duy nhất của thái tử Sidhattha –
người sau này chứng ngộ giải thoát trở thành đức Phật. Tuy nhiên, không có
nhiều kinh điển ghi lại rõ ràng những chi tiết về mối liên hệ giữa
đức Phật và La-hầu-la. Trong trưởng lão Tăng kệ, câu 295 chỉ thoáng qua
rằng “Ta có đầy đủ hai đức tánh tốt đẹp.
Với hai đức tánh này, người có trí gọi ta là ‘La-hầu- may mắn’, đó là: Ta là con đức
Phật, lại có được pháp nhãn”. Thế nhưng, nhiều chi tiết trong một vài bài kinh với số
lượng khiêm tốn, như những nét chấm phá tuyệt vời vẽ nên cho chúng ta một
bức tranh sinh động và cảm động về cách đức Phật dạy La-hầu-la. Ba
bài kinh tiêu biểu đức Phật dạy La-hầu-la, nếu chúng ta xâu kết lại
với nhau, trở nên một quy trình giáo dục hoàn hảo để một người đạt
đến giác ngộ hoàn toàn. Khi La-hầu-la
lên bảy, đức Phật dạy cậu bé về đạo đức (giới) , nhân cách của một người tốt. Đến khi La-hầu-la lớn
hơn một chút, khoảng mười mấy tuổi, Ngài dạy La-hầu-la phương pháp
tĩnh tâm bằng thiền quán (định).
Rồi khi được hai mươi tuổi, La-hầu-la được đức Phật dạy phương pháp
phát triển trí tuệ vô lậu giải
thoát. La-hầu-la đã thành công, trưởng thành và tiến bộ trên con
đường tu tập giải thoát mà đức Phật vạch ra cho tất cả. Trong bài
viết này, chúng ta cùng tìm hiểu những bài học qua cách đức Phật
dạy La-hầu-la khi cậu bé lên bảy và vừa gia nhập tăng đoàn không lâu.
Đức Phật trao gia tài thừa tự cho La-hầu-la
Câu chuyện
đức Phật để gia tài thừa kế lại cho La-hầu-la thật thú vị. Câu
chuyện kể rằng sau 7 năm kể từ ngày rời hoàng cung, thái tử
Sĩ-đạt-ta (Siddhattha), bấy giờ đã thành tựu đạo quả được một năm (6
năm tu khổ hạnh, sau đó mới thay đổi phương pháp tu tập và thành công
với sự nỗ lực thực hành con đường trung đạo), trên đường du hóa, trở
về lại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) để thăm vua cha và hoàng thân quốc thích. Cậu bé La-hầu-la, theo sự hướng dẫn của mẹ, đến bên đức
Phật, xin được thừa hưởng gia sản của Ngài. Nếu thái tử Sĩ-đạt-ta
không xuất gia tìm đạo, thì tất nhiên tài sản thừa hưởng của
La-hầu-la là ngôi vị đế vương, thế hệ kế thừa tiếp sau thái tử
Sĩ-đạt-ta. Thế nhưng, bây giờ, thái tử năm xưa nay đã là một vị khất
sĩ không tài sản bạc tiền, không sở hữu gì cả, Ngài sẽ để cho
La-hầu-la tài sản gì đây? Đáp lại lời cầu xin của La-hầu-la, đức
Phật bảo ngài Xá-lợi-phất (Sariputta), lúc bấy giờ đang đứng bên
phải đức Phật “hãy xuất gia cho La-hầu-la”. Thế là thay vì thừa
hưởng ngai vàng, La-hầu-la được thừa hưởng đời sống đạo đức, thánh
thiện, hướng đến mục đích giải thoát để không còn những ràng buộc
khổ đau.
Từ đó, cậu
bé bảy tuổi La-hầu-la bắt đầu làm quen với cuộc sống của người xuất
gia, tập thực hành đời sống giải thoát theo sự hướng dẫn của đức
Phật và các vị thầy đệ tử lớn của Ngài. Khi đọc lại ba bài kinh
đức Phật dạy La-hầu-la, nhất là bài kinh dạy La-hầu-la không nói dối, biết
phản tỉnh trước, trong và sau khi hành động (Trung bộ kinh số 61),
chúng ta vô cùng cảm phục với cách
dạy rất khoa học, lại phù hợp với tâm lý lứa tuổi của Ngài.
La-hầu-la nói dối để mà chơi…
Những bài pháp được ghi lại trong kinh tạng chủ yếu tập
trung vào những nội dung tu tập và các câu chuyện liên quan đến người lớn,
trong đó đức Phật hoặc chư đệ tử Ngài nói với người lớn, dành cho người lớn,
cả về nội dung giảng dạy lẫn cách dạy. Trong khi đó, có quá ít bài kinh nói
với trẻ em và đề cập đến trẻ em, do vậy phương pháp dạy Phật pháp
cho trẻ em cũng không được đề cập rõ ràng trong kinh điển. Vì lẽ đó, bài kinh đức Phật dạy La-hầu-la
tại rừng Am-bà-la (Trung bộ kinh số 61) trở thành
nguồn tham khảo quý và hiếm đến mức có thể nói là vô giá để tìm hiểu
cách đức Phật dạy trẻ em cũng như mở lối cho chúng ta phương cách ứng
dụng việc dạy đạo đức Phật giáo cho con em mình.
Câu chuyện
kể về cách đức Phật dạy La-hầu-la khi cậu bé nói dối cho ta nhiều
bài học quý. Bấy giờ, La-hầu-la khoảng 7 tuổi. Cậu bé rất thích nói
dối. Ví dụ có người với lòng tôn kinh đức Phật, từ nơi xa xăm bạt
ngàn sơn dã, không quản đèo cao núi hiểm, đường sá xa xôi, tìm đến với hy
vọng được thăm và đảnh lễ đức Phật. Khi đến tinh xá Trúc Lâm
(Veluvana), gần thành Vương-xá (Rājagaha),
gặp La-hầu-la đang chơi đùa, họ hỏi đức Phật hiện đang ở đâu.
Nếu đức Phật đang ở Trúc Lâm thì La-hầu-la bảo Ngài đang ở tinh xá
Kỳ viên (Jetavana) tại Xá-vệ (Sāvatthi) trong khi đó, khoảng cách giữa hai
nơi này là 650 cây số. Thế là họ kéo nhau rời Vương-xá đến Xá-vệ tìm
Phật. La-hầu-la lấy đó làm vui, vì dụ khị được người khác, trong khi
những người này đến Xá-vệ tìm đức Phật thì chẳng thấy Ngài đâu…
Dạy La-hầu-la sống chân thật
Khi câu
chuyện đến tai đức Phật, với tâm từ của một người thầy, Ngài đã
dạy La-hầu-la bài học rất sinh động và thâm thúy. Nội dung những lời
dạy này được ghi lại trong bài kinh Trung bộ số 61, “Kinh giáo giới La-hầu-la tại rừng
Am-bà-la”.
Kinh kể
rằng, một buổi chiều nọ, sau khi hành thiền xong, đức Phật đi đến
chỗ La-hầu-la. Vừa trông thấy Ngài đến, La-hầu-la soạn chỗ ngồi cho
Ngài và chuẩn bị thau nước cho Ngài rửa chân, theo lệ thường. Sau khi
rửa chân xong, còn chút ít nước, đức Phật lấy đó làm ví dụ để dạy
La-hầu-la. Ngài bảo La-hầu-la quan sát chút ít nước còn lại, rồi
Ngài đổ nước đi, cho La-hầu-la quan sát cái chậu không còn nước, rồi
úp cái chậu lại, cho La-hầu-la quan sát, đồng thời hỏi nhiều câu hỏi
để hướng La-hầu-la hiểu rằng, đức hạnh của một người sống trong tăng
đoàn cũng ít, thậm chí không có chút gì, nếu người ấy biết mà cố
tình nói dối, không biết hổ thẹn với việc mình làm. Ngài tiếp tục
đưa ra hình ảnh con voi to lớn, khi xung trận, bằng mọi giá, nó phải
giữ được cái vòi thì mới bảo toàn
mạng sống. Người nói dối cũng như con voi ra trận mà không biết
giữ lấy cái vòi, mạng sống sẽ bị mất. Với tâm thương yêu thật sự
từ đáy lòng và sự kiên nhẫn cần thiết với một đứa bé, đức Phật đã
đánh động tâm thức của La-hầu-la để cậu bé hiểu rằng: người
nói dối, không biết tự hổ thẹn với mình, không biết hổ thẹn với
người, thì không có việc ác gì mà không làm. Ngài đi đến kết
luận “do đó, này con, La-hầu-la, con quyết không được nói dối, dù nói để
mà chơi”.
Bài học đầu tiên, Đức Phật dạy cho La Hầu La, một chú tiểu mới 7 tuổi, vửa
mới xuất gia trong giáo pháp chưa được bao lâu, là bài học về đạo đức chân
thật. Trẻ con phải chân thật, trung thực ngay khi còn nhỏ. Chân thật là chất
liệu căn bản của một nền tảng đời sống đạo đức. Trong cuộc sống, tất cả các mối
quan hệ: thầy-trò, chồng-vợ, cha-con, anh-em, chủ-thợ…đều phải đặt trên nền
tảng của chân thật để có niềm tin với nhau thì quan hệ đó mới bền vững.
Đức Phật dạy La-hầu-la nghiêm khắc, nhưng nhẹ nhàng. Ngài chỉ cho cậu bé thấy việc nói dối là không nên làm đối với một
đứa trẻ. Trẻ con cần phải chân thật trong mỗi lời nói, mỗi việc làm của mình.
Có như vậy, lớn lên mới làm người thành thật, đem lại lợi ích cho mình và cho
người. Điều đáng nói ở đây là chính đức Phật nêu tấm gương sáng ngời, sống một
đời trọn vẹn chân thật nên Ngài dễ dàng cảm hóa La-hầu-la chỉ với một lần nhắc
nhở. Học theo Ngài, các bậc cha mẹ nên ý thức rõ, ngay khi con còn nhỏ, cha mẹ
dạy con lòng trung thực là điều tốt. Tuy nhiên, những giá trị này không chỉ nói
suông mà cha mẹ phải làm gương cho con, làm cho con tin tưởng vào việc làm thực
tế của cha mẹ.
Dạy La-hầu-la quán chiếu hành động, lời nói và ý nghĩ
Sau khi dạy La-hầu-la không
được nói dối, đức Phật tiếp tục dạy chú sa di trẻ này cần phải quán chiếu
hành động, lời nói và ý nghĩ của mình. Trong bài kinh này, tiêu chuẩn cho
mọi hành động thiện lành là việc mình làm không được đem lại khổ
đau cho người, mà đem lại sự lợi ích, an lạc. Đây là tôn chỉ hành
động được đức Phật nhấn mạnh xuyên suốt như một sợi chỉ thắm xâu
kết tất cả các bài pháp của Ngài. Ở một bài kinh khác, Ngài cũng
nêu lên tiêu chuẩn này một cách rõ ràng, rằng không nên tin bất cứ
điều gì từ bất kỳ nguồn nào, người nào, dù đó là truyền thống,
dù đó là được nhiều người tin theo, dù lời đó từ những bậc đạo sư
khả kính, cũng không đơn giản thuận theo những gì mình muốn, mà tiêu
chuẩn để tin là, bằng sự quán xét thấu suốt của mình, thấy việc
nào đưa đến kết quả tương ứng là bất hạnh, khổ đau thì từ bỏ ngay,
vững niềm tin như vậy mà hành động trong cuộc sống. (Tăng
chi bộ kinh, chương III, phẩm VII, kinh số 65).
Trên cơ sở đó, đức Phật dạy
La-hầu-la quán chiếu không chỉ trước khi bắt tay vào làm, mà còn
tiếp tục quán chiếu khi đang làm và sau khi làm xong. Nếu biết soi
xét, quán chiếu cẩn thận, xem đi xem lại trước khi làm để kiểm tra định hướng, quán chiếu đang khi làm để vững tin với chọn
lựa của mình mà nỗ lực nhiều hơn, quán chiếu sau khi làm để một lần nữa xác quyết về tính chất
thiện-ác, lợi-hại của việc mình làm nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho
những việc tương tự như vậy ở tương lai thì chắc chắn ta có kết quả tốt
đẹp và tiến bộ nhanh chóng trong công việc cũng như trong cuộc sống. Đây là điều thuộc về giới và được mệnh danh là tuyên ngôn chánh pháp, điều
được thể hiện qua câu pháp cú 183
rằng “không làm các việc ác, làm các việc
lành, giữ tâm trong sạch”. Nếu giúp trẻ em luyện tập được thói quen này,
các em sẽ trở thành người biết suy nghĩ, cân nhắc chín chắn và rất
chững chạc trong suy nghĩ, lời nói và hành động chứ không bộc phát nhất
thời hay nặng về bản năng cảm tính.
Với tâm tĩnh lặng, không
gợn một tí bực bội, nóng giận nào cả, không hề có sự đe dọa của
hình phạt đối với lỗi lầm cậu bé La-hầu-la đã tạo ra, với tâm bao
dung tràn ngập yêu thương, đức Phật đã đúc kết những gì cần ghi nhớ
và thực hành đối với La-hầu-la bằng những lời xác quyết với một
thái độ nghiêm túc. Lúc này, chúng ta ước chừng cậu bé bắt đầu chú
ý đặc biệt vào từng lời nói của đức Phật nhiều hơn với sự chú ý cao
nhất. Đây là cơ hội không thể tốt hơn để hướng dẫn La-hầu-la cách quán
chiếu, phản tỉnh những hành vi của mình. Lời đức Phật nói với
La-hầu-la thuở ấy khác nào như Ngài đang nói với tất cả những người thực hành
pháp trên con đường hướng thiện và hướng thượng rằng: đúng rồi, ai cũng nên làm
chức năng của một chiếc gương, phản chiếu hành động, lời nói và ý
nghĩ của mình. Nếu hành động, lời nói, ý nghĩ nào không đem lại
lợi ích cho mình và cho người khác, ta hãy bỏ đi, đừng có làm. Còn
hành động, lời nói, ý nghĩ nào đem lại lợi ích cho mình và cho
người khác, hãy nỗ lực làm. Trước khi làm, cũng phải soi xét, đang
khi làm tiếp tục soi xét, sau khi làm cũng tiếp tục soi xét như vậy.
Nghệ thuật giáo dục: dạy trẻ em qua hình ảnh gần gũi, sinh động
Hình ảnh chậu nước:
Ở đất nước Ấn Độ, khi một người tôn kính đến thăm gia đình thì người Ấn có
phong tục là múc một chậu nước để rửa chân như là biểu hiện của sự kính trọng
và hiếu khách. Theo thông lệ đó, khi Đức Phật đến thăm, La-hầu-la
bưng nước rửa chân cho Ngài. Rửa chân xong, đức Phật đổ nước, rồi chừa lại một
ít trong thau. Ngài dùng hình ảnh quen thuộc này, cùng với phương pháp sử dụng
chuỗi câu hỏi có định hướng, để hướng dẫn La-hầu-la ý thức được việc mình đang
làm cùng những hậu quả của chúng. Với một chút nước còn đọng lại trong chậu,
Ngài lay động tâm thức của đứa bé 7 tuổi với những lời nhẹ nhàng mà nghiêm
khắc. Ngài nói “cũng ít vậy, này
La-hầu-la, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý”
(Trung
bộ kinh số 61).
Sau đó Đức Phật Ngài đổ hết nước trong chậu ra ngoài, rồi Ngài nhắc nhở “cũng đổ đi vậy, này La-hầu-la, là Sa-môn hạnh của
những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý” (Trung
bộ kinh số 61).
Chưa dừng lại ở đó, Ngài khắc sâu vào tâm trí non trẻ của La-hầu-la bằng
hình ảnh chậu không còn nước lật úp xuống và nói “cũng lật úp
vậy, này La-hầu-la, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không
có tàm quý” (Trung bộ kinh số 61).
Để nhấn mạnh thêm nữa, đức Phật lật ngửa cái chậu trở lại và với hình ảnh
này, tiếp tục khắc sâu vào tâm trí La-hầu-la: “cũng trống
không vậy, này
La-hầu-la, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý” (Trung
bộ kinh số 61).
Hình ảnh con voi
Với La-hầu-la, tuy còn nhỏ
tuổi, hình ảnh một con voi thiện chiến của vua, có ngà dài, to lớn, khéo luyện,
thường có mặt ở chiến trường là một hình ảnh quen thuộc vì La-hầu-la sống trong
hoàng cung từ bé. Khi lâm trận, con voi này dùng hai chân trước, dùng hai chân
sau, dùng phần thân trước, dùng phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà,
dùng đuôi, dùng hầu hết tất cả những bộ phận của thân thể, nhưng nhất thiết
phải bảo vệ cái vòi, vì khi cái vòi được bảo vệ cẩn thận, mạng sống con voi
được đảm bảo. Một khi con voi không tự biết bảo vệ cái vòi của mình, nghĩa là
nó đã quăng bỏ mạng sống. Đến mạng sống của mình còn khi suất, thì con voi ấy không
có việc gì là không dám làm. Từ hình ảnh này, Ngài quay lại vấn đề, nhấn mạnh
rằng, “này La-hầu-la, đối với ai biết mà
nói láo, không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà
không làm. Do vậy, này La-hầu-la, Ta quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi”
(Trung
bộ kinh số 61).
Hình ảnh chiếc gương
Đức Phật tiếp tục sử dụng một hình ảnh rất gần gũi trong cuộc sống đời
thường nữa là hỏi tiếp La-hầu-la về tác dụng của cái gương. Khi được hỏi “cái
gương dùng để làm gì?”, La-hầu-la đáp “cái
gương dùng để phản tỉnh”. Nhân đó, đức Phật dạy: “cũng vậy, này La-hầu-la, sau khi phản tỉnh nhiều lần,
hãy hành thân nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành khẩu nghiệp. Sau
khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp” (Trung bộ kinh số 61).
Đức Phật Ngài dạy La-hầu-la đời sống tu hành giống như tấm gương, cho nên
trước khi hành động thì hãy tự hỏi, hành động ấy có lợi ích gì cho cho mình và
cho người khác hay không. Nếu có lợi ích cho mình và cho những người khác thì
nên làm, nếu nó không lợi ích mà làm tổn hại cho mình hoặc cho người khác, hoặc
tổn hại cả hai thì đừng làm. Rõ ràng vấn đề căn bản ở đây là đức Phật dạy, hãy
quán chiếu tâm, xét hành động nào thiện thì mình nên làm, hành động bất thiện
thì nên xa lánh.
Bằng phương
pháp tự kỷ ám thị tích cực, cứ mỗi lần dùng hình ảnh sinh động của chậu nước
còn chút ít, không còn nước, lật úp chậu và lật ngửa chậu trở lại; rồi sự bảo
vệ chiếc vòi của con voi xung trận cũng như tác dụng phản tỉnh của chiếc gương
để mình họa, đức Phật chủ tâm lặp đi lặp lại tác hại của nói dối một cách liên
tục để chú sa di trẻ La-hầu-la tạo một rãnh mòn trên cơ quan ghi nhớ là não bộ khắc
sâu ý niệm rằng, đạo đức con người ít như vậy, bỏ đi như vậy, trống không như
vậy, mất mát như vậy với những ai biết mà nói láo, không có tâm hổ thẹn. Do đó,
phải luôn phản tỉnh để kịp thời nhắc mình không chệch hướng trong suy nghĩ, lời
nói và hành động. Với phương pháp giáo dục tuyệt vời của đức Phật,
từng lời nói nhẹ nhàng nhưng thâm thúy của Ngài đã thấm sâu vào tâm
trí trẻ thơ của cậu bé La-hầu-la. Khi nói dối để mà chơi, La-hầu-la
rất có thể chưa hiểu hết những tác hại của việc mình làm, cho đến
khi được đức Phật phân tích cặn kẽ với sự minh họa của chậu nước,
vòi con voi và chiếc gương cùng với sự nhấn mạnh cần thiết.
Nghệ thuật giáo dục: lạt mềm buộc chặt…
Ngoài nội
dung cần truyền đạt đến cậu bé La-hầu-la quá tuyệt vời về phương diện giáo dục
nhân cách, ta học bài học gì từ Ngài ở đây? Đó là thiện chí chuyển
hóa, điều chỉnh hành vi của trẻ em bằng tình thương yêu, bằng sự
giải thích hợp lý, kết hợp với những quan sát hình ảnh cụ thể, trực
quan sinh động. Tất cả những yếu tố này có sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ vô
cùng, tác động trực tiếp đến tâm trí trẻ và có tác dụng tức thời.
Lời lẽ nhẹ nhàng có sức mạnh hơn nhiều so với những đòn roi cùng
những lời mắng nhiếc, xúc phạm nằng nề. Nhiều bậc phụ huynh không áp
dụng được phương pháp giáo dục tuyệt vời như thế này đối với con em
mình. Hễ chúng có lỗi gì, cha mẹ không kềm chế được cơn nóng giận
mà quát tháo ầm ỹ, tệ hơn nữa là đánh đập các em. Có thể nói rằng,
khi đánh con, cha mẹ đã thất bại trong việc giáo dục con mình rồi. Khi
đánh con, cha mẹ thường biện minh rằng “thương cho roi, cho vọt”. Thật ra, đó là cách để giải tỏa
nguồn năng lượng tiêu cực từ cơn tức giận, sự sân si hung dữ của cha
mẹ chứ hoàn toàn không có giá trị giáo dục nào cả, mà còn tập cho
trẻ có tính bạo động, nguy hiểm khôn lường.
Các chuyên
gia thần kinh và bác sĩ tâm lý trị liệu, gần đây nhất là các nhà khoa học
Anh thuộc Đại học Kings College ở London cho biết, bạo lực trẻ làm biến đổi
vĩnh viễn cấu trúc não bộ của chúng, hạ thấp chỉ số thông minh và có thể dẫn
đến những bệnh tâm thần nghiêm trọng. Theo mô tả trong bài đăng trên tạp chí
chuyên ngành tâm thần học American Journal of Psychiatry số tháng 7/2014 các
thể chất xám mất dần đi ở trẻ thường bị bạo hành. Tệ hơn, hiện tượng
còn xảy ra ở những khu vực đóng vai trò quyết định đối với quá trình tư duy và
tái tạo thông. Do đó, trẻ em càng bị đòn, càng kém thông minh, không
tinh nhạy, xử lý thông tin kém, suy giảm trí nhớ. Nếu bị đòn thường
xuyên, các em sẽ bị sang chấn tâm lý, trở nên trầm cảm, lỳ lợm hoặc
hoảng loạn… Liệu cha mẹ nào khi biết điều này rồi vẫn còn dùng roi
vọt để biện minh cho đó là phương pháp giáo dục con trẻ đúng hay không?
“Lạt mềm
buộc chặt”, tình thương yêu, nhẹ nhàng, ân cần với trẻ em ngay cả khi
chúng lỗi lầm là cách trị liệu tâm lý hiệu quả nhất để giúp các em
nhận lỗi, sửa lỗi và ngày càng ngoan hơn. Với cách này, truyền thông
giữa các thế hệ được kết nối và củng cố bằng chất liệu yêu thương và trí tuệ.
Nghệ thuật giáo dục bằng “đức trị” bao giờ cũng nhẹ nhàng, sâu sắc và hiệu quả
nhiều lần hơn so với cách “pháp trị” vừa nặng nề cồng kềnh vừa kém hiệu quả. Hãy
làm những phụ huynh khôn ngoan để chọn cách giáo dục nhân văn nhất: trải tình
thương yêu ôm ấp cả những vụng về, lầm lỗi của con em mình và mở lối cho chúng
tự làm mới mình như đức Phật đã từng làm với La-hầu-la.
Nghệ thuật giáo dục: biết nghĩ đến người khác
Chúng ta vô cùng kính phục
đức Phật, người đã dạy La-hầu-la quán chiếu những hành động, lời
nói và ý nghĩ của mình trên cơ sở có lợi ích hoặc gây tổn hại cho
mình và cho người khác, mà không chỉ trên cơ sở đúng-sai. Đức Phật đã
chủ tâm dạy cho một đứa bé, ngay từ nhỏ, bên cạnh việc tỉnh táo và
công tâm quán sát đúng-sai, còn biết quan tâm đến người người khác,
nghĩ đến người khác khi tác ý hay hành động. Đây là yếu tố đạo đức nền
tảng đầu tiên để phát triển lòng thông cảm, thấu cảm và thương yêu nơi
một con người. Học cách giáo dục này, chúng ta có thể đưa con em của
mình vào quỹ đạo sống biết nghĩ đến sự bình an của người khác. Mỗi
khi quyết định điều gì, cần dựa trên nền tảng đạo đức căn bản: việc
mình làm không làm tổn hại ai thì nên làm.
Ngài Dalai Lama từng nói
trong bài phát biểu của Ngài tại Vancouver, British Columbia,
Canada, ngày 21 tháng 10 năm 2014 rằng “cảm
giác quan tâm đến sự bình an của người khác là nguồn tuyệt vời nhất đưa đến sự
an tịnh nội tâm”. Trên cơ sở này, nền tảng của giáo dục nhân-quả
cũng được dần thấm vào tâm hồn trong trắng của các em nếu chúng ta
chịu khó và nhẫn nãi dạy con trẻ trong mọi tình huống. Cứ tác động,
khuyến khích để các em luôn biết quán chiếu và quan tâm đến niềm vui
nỗi buồn của người khác khi quyết định nói, làm hay nghĩ việc gì.
Một khi có thói quen như thế, chắc chắn các em sẽ hiểu được nhận thức,
thái độ và hành vi của mình sẽ tác động đến người khác thế nào để
không gây ảnh hưởng tiêu cực đến mọi người. Đây là cách tập các em có
tinh thần trách nhiệm về chính bản thân mình. Học theo hạnh lành của đức Phật,
là người phật tử, nếu chúng ta làm gương trong việc thực hành quán
chiếu bản thân và thương yêu người khác, các em càng có điều kiện
học và thực hành điều này nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Theo lời đức Phật dạy, chúng
ta khuyến khích con em mình, không chỉ trước khi làm, đang khi làm mà ngay cả sau
khi làm xong việc cũng cần quán chiếu, thử kiểm tra xem việc các em vừa
mới làm có tổn hại ai không. Nếu có, chúng ta hướng dẫn các em thành
tâm sám hối, chân thành xin lỗi người mình đã làm tổn thương. Đây là
cách rất hay để tập cho con em chúng ta ý thức và có tinh thần tự
phê, tự nhận lỗi, từ đó dễ dàng tiếp nhận những ý kiến đóng góp,
khuyên dạy của người khác để dần hoàn thiện mình. Tuy nhiên, nếu cha
mẹ nóng giận, la mắng, bắt phạt mỗi khi con em mình mắc lỗi thì trẻ
em không dám nói thật những sai lầm của mình. Điều này dễ hiểu vì không
một ai, kể cả người lớn thích nghe la mắng hay chịu hình phạt. Nếu
cha mẹ có thái độ bao dung, đầy lòng thương yêu, chấp nhận lỗi của con em
mình như đức Phật đối với La-hầu-la mà nhẹ nhàng chỉ dạy, con em
chúng ta mới dám thành thật với cha mẹ khi mắc phải lỗi lầm. Bằng
không, chúng tìm mọi cách có thể để đối phó và tránh né. Cách cha
mẹ, người lớn tiếp nhận lỗi của con em mình góp phần quyết định
cách trẻ em phản ứng như thế nào. Do vậy, chúng ta cũng phải tự xét
mình, lòng bao dung đủ sức chứa những lỗi lầm của con em mình chưa?
Lòng thương yêu của mình đã đủ lớn để ôm các em vào lòng chưa? Ta có đủ
kiên nhẫn giúp các em nhận ra lỗi lầm và nỗ lực tránh trong tương lai
chưa?
Thay lời kết
Chúng ta
có thể học được phương pháp giáo dục trẻ của đức Phật qua cách Ngài
dạy La-hầu-la để hướng dẫn con em mình thuần thục những đức hạnh tốt đẹp,
cách sống đạo đức và trang bị những kỹ năng sống hơn là để lại cho chúng tài
sản vật chất. Chúng ta cũng có thể học Ngài để ươm mầm Phật pháp, dạy nghệ
thuật sống biết quán xét, bình an và tỉnh thức cho trẻ em. Bài học sinh động từ
bài kinh này là hãy dạy cho trẻ em những điểm căn bản nhất, đơn giản
nhất, dễ hiểu nhất để các em áp dụng được ngay sau khi học, nhằm
tích lũy làm vốn liếng cần thiết khi trưởng thành. Làm thế nào để
việc học những tính cách tốt đẹp, đạo đức cao quý ở trẻ em diễn ra tự
nhiên, quen thuộc mà sinh động như những sinh hoạt hằng ngày. Hơn thế
nữa, làm sao để những điều cần học gần gũi với các em như cơm ăn, nước
uống, khí thở và như chính ngôi nhà ấm cúng của mình thì việc giáo
dục sẽ thành công và có hiệu quả.
Chúng ta dù
có đi đâu, xong việc là về ngay ngôi nhà thân yêu của mình nếu nơi ấy
đúng nghĩa là “tổ ấm”. Ngay cả khi đi xa, ngôi nhà vẫn là nơi ta nghĩ về
nhiều nhất, nơi ấm áp nhất nuôi lớn đời sống tình cảm và tinh thần
và là nơi cho ta trú ẩn an toàn nhất trước mưa nắng bão giông. Cũng
như vậy, với tình yêu thương dành cho trẻ, cùng sự kiên nhẫn đủ lớn,
lòng bao dung đủ rộng để chứa đựng, để ôm ấp, để chở che, chúng ta dễ dàng đưa
con em mình vào quỹ đạo sống đạo đức theo con đường hướng thiện. Với sự chân
tình và khéo léo, ta có thể tác động vào tâm thức trẻ thơ, tạo cú hích cần
thiết để các pháp thiện lành thật sự trở thành một phần cuộc sống thiết
thân của các em từ thuở bé. Nếp sống đạo đức là ngôi nhà tâm linh bình yên
cho mỗi người nương tựa trên con đường hoàn thiện bản thân. Hỗ trợ con em chúng
ta kiến tạo ngôi nhà tâm linh, nghĩa là ta đã biết cách trao gia tài quý
báu nhất cho thế hệ sau theo đúng tinh thần của đạo Phật vậy.