Saturday, January 16, 2016

ĐỨC PHẬT VÀ TUỔI TRẺ

Cách đây 26 thế kỷ, thái tử Siddattha đã sanh ra tại vườn Lumbini. Lớn lên trong cung vàng điện ngọc, nhưng rồi sau khi cảm nhận sâu sắc những bức bách của thân phận con người, thái tử khước từ tất cả những lạc thú trần gian vốn giam hãm kiếp người trong bốn tường thành của ăn, mặc, ở, bệnh. Ý thức được nỗi khổ đau mà kiếp sống nhân sinh gánh chịu, Ngài quyết chí thoát trần, ra đi tìm đường thoát khổ khi ở tuổi thanh xuân. Tràn đầy nhiệt huyết, nghị lực phi thường của tuổi trẻ, Đức Phật nỗ lực tìm cầu chân lý giác ngộ. Với tuổi trẻ, Ngài đã thành tựu đạo quả giải thoát. Với sức trẻ, Ngài đã dấn thân trên con đường hoằng hóa.  Hơn ai cả, Ngài hiểu được tiềm năng của tuổi trẻ. Hơn ai cả, Ngài biết được những gì tuổi trẻ có thể làm. Hơn ai cả, Ngài biết sử dụng tuổi trẻ một cách ý nghĩa nhất. Hơn ai cả, Ngài khuyến khích mọi người đừng lãng phí tuổi trẻ của mình.

Trải nghiệm tuổi trẻ của Đức Phật

Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là tuổi có công lực mạnh mẽ nhất để có thể làm nên sự nghiệp cho một đời người. Chính bản thân Đức Phật, Ngài thoát khỏi ngục vàng “khi tuổi còn trẻ, tóc đen nhánh, với tuổi thanh xuân đầy nhựa sống” (Trường bộ kinh, số 4: Sonadanta; số 5: Kutadanta), là một điển hình sinh động về tiềm năng của tuổi trẻ. Sự mô tả này còn có thể gặp trong kinh Thánh cầu, Trung bộ kinh số 26, rằng “khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ.”
Với tuổi trẻ, Ngài có thể trải qua 6 năm ròng thực hành khổ hạnh đến cùng cực. Thử nhớ lại những hình thức khổ hạnh được Đức Phật diễn tả lại trong Đại kinh sư tử hống, số 12 Trung bộ kinh, như ngày ăn một hạt đậu hoặc một hạt mè (Ngài còn nhắc là đừng có tưởng hạt đậu, hạt mè thời ấy lớn hơn hạt đậu, hạt mè bây giờ, nó cũng giống vậy thôi), thì chỉ có sức trẻ mới chịu đựng nổi.
Với tuổi trẻ, cùng nỗ lực phi thường một cách có nghệ thuật, để rồi Ngài chứng đạt chân lý giải thoát. Ngài đã ngồi yên dưới cội bồ đề theo sự mô tả trong kinh sách là suốt 49  ngày đêm, để vượt qua già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm và chứng đạt “vô thượng an ổn khỏi các khổ ách” (Kinh Thánh Cầu, trung bộ kinh số 26).Với sức trẻ, Ngài nỗ lực tinh chuyên thiền định, tu tập thân và tâm đúng theo pháp của bậc thánh (Đại kinh Saccaka, kinh số 36 Trung bộ kinh).
Với tuổi trẻ, Ngài thành lập ra một tôn giáo giải thoát cho đời và lan truyền rộng rãi khắp nơi vượt qua không gian và thời gian. Đạo Phật hình thành trên đất Ấn với chủ trương công bằng, bình đẳng xã hội, bình đẳng giới tính, đặt trọng tâm vào nỗ lực cá  nhân… như một cuộc cách mạng vĩ đại thời ấy. Do vậy, Ngài gặp vô số chướng ngại trên con đường hoằng hóa từ nội bộ đệ tử cũng như từ ngoại đạo. Với sức trẻ, Ngài kiên định trên bước chân hoằng hóa và tuyên bố “ta không tranh cãi với đời(Kinh Trung bộ, tập I, Kinh số 18: Kinh Mật hoàn). Mỗi ngày, Ngài đều tinh tấn trên bước chân du hóa. Nếu gặp người nào có duyên hỏi đạo, hoặc ngươi nào Ngài thấy đủ duyên để độ, Ngài liền đến đó để nói pháp giáo hóa. Thế đấy, Ngài ra đi, mặc cho cái nắng chói chang như đổ lửa trên đầu, Ngài vẫn cứ kiên trì giữa bụi đường mù mịt. Mãi cho đến chiều tối, Ngài dừng bước nghỉ ngơi. Nếu có ngôi làng hay ngôi rừng nào gần đấy có thể nghỉ tạm qua đêm, Ngài nghỉ  ở đấy, có lúc Ngài lót lá trong rừng nghỉ lưng như vậy trong tiết mùa đông lạnh giá với cảnh  màn trời chiếu đất (Kinh Tăng chi bộ, tập I, chương 3 pháp, phẩm 4, mục 34: Về Alavī).
Với sự cống hiến của sức trẻ, Đức Phật đã làm một sa môn học đạo, tu đạo, thành đạo và hành đạo một cách hiệu quả. Từ kinh nghiệm bản thân, Ngài dạy rằng “Còn với tỳ kheo trẻ ; Nồng cháy với nhiệt tình, Nhưng không con, không cái, Không của cải truyền thừa, Không con, không thừa tự, Như thân cây tala.”(Tương ưng bộ kinh, tập I, chương III, Phẩm 1, mục 1).  Do đó, trong giáo lý Ngài dạy, chúng ta thấy Ngài rất coi trọng về tuổi trẻ. Ngài nói có bốn thứ trẻ không nên coi thường, đó là: vua trẻ tuổi, tỳ kheo trẻ tuổi, đóm lửa nhỏ và con rắn nhỏ” (Tương ưng bộ kinh, tập I, chương III, Phẩm 1, mục 1).

Tâm lý chung của con người: thích hưởng thụ

Dù ở độ tuổi nào, con người ta thường có cảm giác mình hãy còn trẻ nên có tâm lý “hẹn lần hẹn lữa” với những việc cần làm. Lúc nào chúng ta cũng cho mình cái ‘quyền’ nghĩ rằng : mình còn nhiều thời gian nên chưa cần phải vội, hưởng thụ những niềm vui thế gian thêm thời gian nữa rồi hãy gác lại tu tập cũng không muộn. Trên lý thuyết, chúng ta vẫn hiểu vô thường là quy luật chung, song trên bình diện trải nghiệm thực tế, từ sâu thẳm trong tâm thức, ta vẫn tin rằng vô thường có đến với ai chứ cũng chưa đến với mình. Năm dài tháng rộng,hãy để đó, chúng ta vẫn còn nhiều thời gian để hưởng thụ mà. Phải chăng vì tập khí sanh tử lâu đời chúng ta không nhận chân được bản chất vô thường của cuộc sống? Biết khi nào là ‘sớm’ hay ‘trễ’?
Chỉ khi nào hành giả thấy nguy hiểm trong các dục mới có thể dốc tâm hướng đến sự xuất ly, tịnh tín, an trú, giải thoát, và đây là điểm khác nhau căn bản giữa người xuất gia và người gia chủ.“ Đối với chúng tôi, thưa Tôn giả, là những gia chủ, thọ hưởng các dục, vui thích các dục, ưa thích các dục, hoan hỷ các dục, thật giống như một cái vực thẳm cho chúng tôi là sự xuất ly này. Tuy vậy, thưa Tôn giả, chúng tôi được nghe rằng trong Pháp và Luật này, tâm của các Tỷ-kheo trẻ tuổi hứng khởi trong sự xuất ly, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì được thấy rằng đây là an tịnh. Chính ở nơi đây, thưa Tôn giả, là sự sai khác trong Pháp và Luật này giữa các Tỷ-kheo và phần đông quần chúng, tức là sự xuất ly này”. (Tăng chi bộ kinh, chương IX, phẩm 4, kinh số 41)
Ác ma luôn hiện hình dụ dẫn đệ tử Phật trên con đường tinh tấn, tận dụng sức trẻ để tu học. Ma ăn, ma ngủ, ma ngũ dục… là những bản năng mang tính hạ liệt, trong khi đó, muốn thực hành pháp phải dõng mạnh đi ngược lại con lốc xoáy của bản năng. Với chư tỳ kheo đệ tử Phật không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, ác ma đội lối bà-la-môn dụ rằng “Chư Đại đức xuất gia quá trẻ, niên thiếu, tóc còn đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong thời trẻ thơ của tuổi đời, không thọ hưởng các dục. Chư Đại đức hãy thọ hưởng các ái dục của con người, chớ có bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối.”
Chư vị đáp: “Này Bà-la-môn, chúng tôi không bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối. Và này Bà-la-môn, chúng tôi bỏ những gì bị thời gian chi phối và chạy theo hiện tại. Này Bà-la-môn, Thế Tôn đã nói các dục bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, tai họa ở đấy càng nhiều hơn. Còn pháp này thuộc về hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, và chỉ người trí mới tự mình giác hiểu” (Tương ưng bộ kinh, tập I, chương IV, phẩm 3: Đa số).

Tuổi trẻ không chờ đợi ai

Đã là con người, có sinh ra trên thế gian này, tất nhiên theo quy luật, sẽ hoại, sẽ diệt khi không còn đủ duyên duy trì thể trạng một “con người” đúng nghĩa. Song khi nào? Không ai biết chắc được. Đâu phải chỉ có những chiếc lá vàng khô mới rời cành. Có những chiếc lá non còn xanh đã vội xa cành rơi xuống đất đấy chứ. Nghĩa địa biết bao người chết trẻ? Bệnh viện đâu chỉ dành cho người già? Mọi hiện tượng trên thế gian này đều không chắc, chỉ có một hiện tượng chắc chắn, đó là chết. Chết là một sự thật không ai chối cãi được. Đức Phật đã khẳng định điều này biết bao lần trong nhiều bài kinh (kinh số 10, 13, 22, 54, 75, 119 trong Trung Bộ; kinh số 22 Trường bộ; Tương ưng bộ kinh, tập V, Chương IV, phẩm V: Về già; Tương ưng bộ kinh, tập I, chương III, phẩm 1: vua, Tương ưng bộ kinh, tập V, chương XI, phẩm 6:Bị bệnh; Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm VI, kinh số 51, chương III, phẩm VII, kinh số 62, chương IV, phẩm XIII, kinh số 122; vv). Do đó, cuộc sống của chúng ta vốn có giới hạn. Đối với người sống thọ chăng nữa, giới hạn đó  tối đa cũng chỉ trên dưới 100 năm cho một kiếp sống con người, “Ai sống được trăm tuổi, cuối cùng cũng phải chết, không bỏ sót ai” (Tương ưng bộ kinh, tập V, Chương V, Phẩm Về già) hoặc thọ như tổ mẫu của vua Pasenadi nước Kosala thọ 120 tuổi rồi cũng kết thúc bằng cái chết (Tương ưng bộ kinh, Tập I, chương III, phẩm 3, kinh số 2: Tổ mẫu). Thế rồi, theo quy luật, thân tứ đại sẽ trả về với tứ đại, tâm theo nghiệp lực luân chuyển xuống lên tùy tư lương mình tích lũy được trong kiếp sống này cũng như tiềm tàng trong nhiều kiếp sống trước. Người nào ý thức thời gian mình sống có hạn, người ấy sẽ trân quý tuổi trẻ mình đang có, trân quý thời gian mình được dành cho để sống trọn vẹn ý nghĩa một kiếp người.

Tuổi trẻ qua đi thì lực bất tòng tâm

Có được thân người còn khó hơn cả con rùa mù sống trong biển cả, một trăm năm mới nổi trên mặt biển một lần mà chui vào được lỗ bộng một thân cây trôi dạt trên biển (Tương ưng bộ kinh, tập V, chương 12: Phẩm 5:, mục 47: Lỗ khóa). Hiểu được điều này, chúng ta cần trân quý tuổi trẻ hơn và tận dụng sức trẻ để sống xứng đáng một kiếp người. Nhiều kinh điển ghi nhận rằng, Đức Phật luôn nhắc nhở con người nên sử dụng tuổi trẻ mình có để hiện thực hóa những định hướng cuộc đời vì dòng sốngluôn vận hành, đừng để thời gian và tuổi trẻ cứ trôi đi mãi. Tuổi trẻ đi qua, không bao giờ trở lại, như triết gia Heraclitus từng nói, chúng ta không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông. Nuối tiếc không giúp được gì. Con người chỉ có thể xây dựng sự nghiệp của mình ở tuổi thanh xuân. Đời cũng như đạo, ai cũng cần định hướng cho mình một mục đích sống và dành năng lượng, sức trẻ để biến định hướng ấy thành hiện thực sinh động. Chỉ có tuổi trẻ là thời kỳ sung mãn nhất để bước vững chắc trên con đường mình đang đi, thực hiện hoài bão ởđời. Lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp cú nhắc nhở chúng ta điều này:
“Lúc thanh niên cường tráng đã không kiếm ra tài của, cũng chẳng lo tu hành, thì khi già cả chẳng khác gì con cò già bên bờ ao, chẳng kiếm ra mồi phải khô héo chết mòn.
Lúc thanh niên cường tráng đã không kiếm ra tài của, cũng chẳng lo tu hành, nên khi già nằm xuống, dáng người như cây cung gãy cứ buồn than về dĩ vãng.”
 (Pháp cú, kệ số 155, 156, H.T. Thích Trí Đức dịch)
Không những đời này mà trong các kiếp sống trước, Đức Phật cũng ý niệm được sự quan trọng của cuộc sống tuổi trẻ, sự chắc chắn của cái chết.  Ngài nói: “đến một tuổi nào đó, ta sẽ chết. Ta không biết thời nào ta sẽ chết. Thời ấy đối với ta bị che kín. Do vậy, trong tuổi trẻ, ta hành trì sa môn pháp để chấm dứt khổ đau” (Câu chuyện tiền thân, số 167). Thế đấy, mỗi ngày qua đi là mỗi lúc chúng ta xích lại gần cái chết hơn. Tuy nhiên, chỉ có bậc giác ngộ giải thoát mới có thể sống tri hành hợp nhất. Còn chúng ta, đến khi tuổi già đến, không còn sức khỏe nữa thì mới tỉnh ra. Thế rồi ân hận và tiếc nuối vì một khoảng thời gian dài ta phung phí năng lực và sức khỏe cho những việc không chính đáng.
Không chỉ Đức Phật mà chư thánh đệ tử của Ngài cũng có kinh nghiệm tương tự như vậy. Lấy trường hợp Angulimala làm điển hình. Với tuổi trẻ, Angulimala làm kinh thiên động địa khắp thành Savatthi với sự hung bạo của một tên cướp giết người không gớm tay. Với tuổi trẻ, Angulimala được Đức Phật cảm hoá, thay đổi tâm tánh một cách đột biến và cũng với tuổi trẻ, Tôn giả Angulimala tu hành chứng quả thánh. Bằng sự tự cảm nhận bản thân, Tôn giả nói bài kệ sau khi chứng quả thánh:
Ai tỳ kheo còn trẻ,
Chuyên tâm hành Phật dạy,
Chói sáng thế giới này,
Như trăng thoát mây che (Trưởng lão tăng kệ, số 873, H.T. Minh Châu dịch).
Người trẻ tuổi không lo tu học mà phung phí tuổi trẻ vào những việc làm vô bổ, Đức Phật gọi là kiêu mạn tuổi trẻ, Ngài dạy “Say sưa trong kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.” (Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm 4, kinh số 39: Kiêu mạn).
Đức Phật nói đến những trở ngại của người xuất gia lớn tuổi rằng: “Này các Tỷ kheo, thật khó tìm được một người xuất gia lớn tuổi lại thành tựu năm pháp: một người xuất gia lớn tuổi lại tế nhị, có uy nghi tốt đẹp, nghe nhiều, thuyết pháp, trì luật.”(Tăng Chi Bộ kinh, chương V, phẩm 6, kinh số 59: Khó tìm được). Điều này có nghĩa Ngài gián tiếp xác nhận, người xuất gia trẻ tuổi dễ dàng hơn trong việc thành tựu năm pháp căn bản trên.
Cuộc sống vốn cho ta nhiều bài học sinh động. Hãy nhìn những mảnh đời của bao người xung quanh, chúng ta càng thấm thía hơn lời Đức Phật và chư thánh tăng dạy về tính chất vô thường của cuộc sống. Những người nào tận dụng thời gian, sức lực của tuổi trẻ sung mãn của mình để thành tựu mục đích cuộc sống là người biết cách đánh dấu tích cực khi có duyên đến với cuộc đời này. Về già, những người như vậy thường thảnh thơi nhẹ nhàng, đến lúc giã từ cuộc sống, họ an nhiên sau khi đã chu toàn phận sự ở đời. Người chưa phát huy hết những gì mình có ở tuổi trẻ, thường nuối tiếc về già. Tuổi trẻ qua đi như nước chảy về xuôi. Tiếc đấy nhưng biết làm sao hơn, mình đâu có cơ hội quay ngược đồng hồ thời gian, ‘hoàn đồng’ thay da trẻ lại để được bắt đầu cuộc sống thêm một lần nữa, để rồi tận dụng thời gian của tuổi trẻ một cách hiệu quả hơn. Đến lúc chết vẫn còn bề bộn nhiều việc chưa hoàn thành, bao kế hoạch còn dang dở, chưa sẵn sàng tâm thế vẫy tay chào tạm biệt thế gian, làm sao an nghỉ? Như thế dù thân xác đã lìa khỏi dương trần, tâm thức không khỏi mang theo nỗi lo âu, nuối tiếc để góp thêm năng lượng cho con tàu luân hồi nhọc nhằn đi thêm vài ga tàu nữa trên lộ trình sanh tử.

Sử dụng tuổi trẻ để tu tập giới, định, tuệ

Biết được nghiệp chướng trầm kha của chúng sanh, mãi đua chen trong trường đời danh lợi, chạy đua với thời gian để bắt bóng hạnh phúc mà quên việc chuẩn bị tư lương cho đường đi trong tương lai của mình, Đức Phật luôn nhắc nhở, phải hiểu được luật vận hành của cuộc sống mà tận dụng tuổi trẻ để làm việc và tu tập. Có lần, thị giả Ananda buồn khi thấy Đức Phật trở nên già hơn trước, Ngài dạy: “Này Ananda, tánh già nằm trong tuổi trẻ; tánh bệnh ở trong sức khỏe; tánh chết ở trong sự sống.”(Tương ưng bộ kinh, tập V: Thiên Đại phẩm, Chương V, Phẩm Về già). Lời dạy trên không chỉ nhắc nhở tôn giả Ananda mà là cho tất cả. Nếu chịu khó suy ngẫm một tí, chúng ta sẽ không khó để cảm nhận điều này. Thế nhưng, một khi bị cuốn vào các pháp chịu sự chi phối của biến hoại, suy tổn, hoại diệt, ta lại quên đi sự thật này mà mãi thăng trầm chịu sự chi  phối của sầu, bi, khổ, ưu, não. Đó là lý do Đức Phật khuyên nhắcnhiều lần trong kinh về sự suy hoại không ai tránh khỏi của tuổi già. Ngài dạy: này các Tỳ kheo, hãy quán sát như sau: “Nay ta còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen nhánh, trong buổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời. Nhưng rồi đến thời già sẽ đến với thân này. Khi đã già yếu, và bị tuổi già chinh phục, thật không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị già, ta sẽ sống được thoải mái” (Tăng chi bộ kinh, chương năm pháp, phẩm 8, kinh số 78). Thế đấy, Đức Phật lúc nào cũng thương chúng sanh, như người mẹ thương đứa con duy nhất của mình, đem những lời tâm huyết tự đáy lòng ra để trao gởi một cách chí tình như vậy. Ở một bài kinh khác, Ngài lại nói về năm điều bất lợi cho tinh cần: tuổi già, bệnh hoạn, đói kém, sợ giặc cướp và tăng chúng chia rẽ; năm điều thuận tiện cho tinh cần: tuổi trẻ, mạnh khỏe, đầy đủ vật thực, sống hòa thuận, hòa hợp (Tăng chi bộ kinh, Chương Năm pháp, phẩm VI, kinh số 54 ). Trong năm yếu tố trên, Ngài đề cập đến sức khoẻ và tuổi trẻ. Như thế đủ thấy Đức Phật muốn chư đệ tử Ngài làm gì để không uổng phí một kiếp người. Điều quan trọng Ngài hướng đến là dạy cho mọi người biết hướng về con đường lành, trở nên người trí, không bị dục vọng chi phối để thành những người ‘trưởng lão’. Khái niệm ‘trưởng lão’ Ngài không dùng để chỉ cho người lớn tuổi: Người lớn tuổi, 80 tuổi hay 90 tuổi, hay 100 tuổi đời, nếu người ấy thọ hưởng các dục vọng, sống giữa các dục vọng, bị lửa nhiệt não của dục vọng đốt cháy, bị các tư tưởng về dục vọng nhai nghiến, cố gắng tìm cầu các dục vọng; người như vậy được gọi là kẻ ngu, không phải là bậc trưởng lão. Dầu cho một người còn trẻ, một thanh niên trẻ trung với tóc đen nhánh, đầy đủ tuổi trẻ hiền thiện trong thời sơ khởi của tuổi đời, mà người ấy không hưởng thọ các dục vọng, không sống giữa các dục vọng, không bị lửa nhiệt não của dục vọng đốt cháy, không bị những tư tưởng về dục vọng nhai nghiến, không cố gắng tìm cầu các dục vọng; người như vậy được gọi là bậc có trí, bậc trưởng lão. (Tăng chi bộ kinh, chương hai pháp, Phẩm 3: Người ngu, chương Bốn pháp, phẩm 3: Uruvela).
Theo lời Đức Phật dạy, trên con đường tu tập, nên sử dụng tuổi trẻ của mình đểđoạn trừ lậu hoặc, thanh lọc nội tâm, tu tập giải thoát. Điều Ngài muốn tuổi trẻ thấu hiểu và thực hành là Tứ diệu đế, giáo lý cốt lõi trong lời dạy của Ngài, như là một nghệ thuật sống để đoạn tận khổ đau. Giáo lý này Ngài giảng cho năm người bạn đồng tu trong bài pháp đầu tiên ngay sau khi chứng đạo (Luật tang, tập IV, tr 13; Tương ưng bộ kinh, tập V, Thiên Đại phẩm, chương 12: Tương ưng sự thật, Phẩm 2: Chuyển pháp luân). Hầu hết những bài pháp Ngài giảng sau này trong cuộc đời hành đạo là sự mở rộng hoặc nhìn từ các phương diện khác của giáo lý Tứ đế này mà thôi. Do vậy, Ngài nói: tất cả các dấu chân của các loài động vật thâu nhiếp trong dấu chân voi, cũng như thế, tất cả các thiện pháp đều thâu nhiếp trong giáo lý Tứ diệu đế (Trung bộ kinh, số 28: Đại kinh dấu chân voi). Về phương diện thực hành, để hiểu Tứ đế, không có con đường nào khác hơn là tu tập ba pháp: giới, định và tuệ. Đây là pháp hành duy nhất của Đạo Phật để đạt đến an lạc, giải thoát. Tự thân Đức Phật và chư thánh đệ tử của Ngài chứng ngộ chân lý cũng qua tiến trình này. Ngài cũng áp dụng phương pháp tu tập này để dạy tuổi trẻ, cụ thể là Rahula, theo một trình tự khoa học,phù hợp với sự phát triển theo lứa tuổi: nhận diện vấn đề, tìm ra nguyên nhân vấn đề, trạng thái không còn vấn đề và phương pháp giải quyết vấn đề.
Quá trình tu tập giới, định và tuệ được Đức Phật sử dụng dạy cho tuổi trẻ theo trình tự lứa tuổilà phương pháp giáo dục được áp dụng hiệu quả mãi đến ngày nay. Với Rahula, đứa con duy nhất của Thái tử Siddhartha lúc Ngài chưa thành Phật, gia nhập tăng đoàn từ lúc lên bảy. Qua sự giáo dục của Đức Phật, tôn giả Rahula chứng quả thánh khi tôn giả khoảng 21 tuổi. Những bài kinh trong Trung bộ và Tương ưng bộ kinh cho chúng ta toàn cảnh về quá trình tu tập của tôn giả Rahula. Lúc còn nhỏ, dưới 10 tuổi, Đức Phật dạy Rahula giữ giới, nền tảng căn bản của cuộc sống phạm hạnh. Một trong những giới quan trọng con người dễ mắc phải nhất là giới không nói dối. Qua việc dùng chậu nước Rahula đem đến cho Ngài rửa chân, với phương pháp hỏi đáp, Đức Phật đã dạy Rahula cách giữ giới để an trú trong sa môn hạnh. Ngài nói:  “đối với ai biết mà nói láo, không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm. Do vậy, này Rahula, ‘Ta quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi’, ngươi  phải học tập như vậy.” Thêm vào đó, qua ví dụ của cái gương là để phản chiếu, Ngài dạy Rahula trong mỗi suy nghĩ, lời nói hay hành động, trước khi thực hiện, đang khi thực hiện và sau khi thực hiện phải phản tỉnh, việc nào có lợi cho mình và cho người thì hãy làm. (Trung bộ kinh, số 61: Kinh giáo giới Rahula tại rừng Ambala)
Đến giai đoạn thứ hai, khi Rahula lớn hơn một chút, Ngài hướng dẫn Rahula tu tập thiền định. Đức Phật dạy quán về các uẩn, giới. Trên cơ sở trưởng lão Sariputta dạy Rahula quán niệm hơi thở, Ngài giảng rộng thêm về pháp tu tứ niệm xứ để Rahula luyện tập tâm định tĩnh (Trung bộ kinh, số 62: Đại kinh giáo giới Rahula).
Ở giai đoạn cuối cùng, khi Rahula trưởng thành, trở thành một vị tỳ kheo thọ đại giới rồi, Đức Phật hướng dẫn tôn giả tu tập tuệ, quán ngũ uẩn là vô thường, khổ, vô ngã để đoạn tận lậu hoặc, không còn chấp thủ. (Trung bộ kinh, số 147: Tiểu kinh giáo giới Rahula, Tương ưng bộ kinh, tập II, chương 7: Tương ưng Rahula). Thế rồi Đức Phật thường dạy tôn giả Rahula từ bỏ năm dục, để chấm dứt khổ đau (Kinh tập, câu 337), thân cận với bạn thiệnlành, thườngsống nơi các trú xứ xa vắng, viễn ly không ồn ào và tiết độ trong ăn uống (Kinh tập, câu 338), không nên tham ái vào các vật chất y áo, đồ khất thực, vật dụng và sàng tọa (Kinh tập, câu 339),chế ngự trong giới bổn, phòng hộ các căn, tu tập chánh niệm, sống ly tham (Kinh tập, câu 340). Nhờ những lời chỉ dạy này, tôn giả Rahula sử dụng tuổi trẻ sung mãn của mình tinh tấn tu tập, đắc quả thánh không bao lâu.
Tuổi trẻ là bước ngoặt của một đời người, là tuổi có tiềm năng với nhiều thay đổi đáng kể về tâm sinh lý. Chính đặc điểm này của tuổi trẻ, Đức Phật đã quyết định lìa bỏ cung vàng điện ngọc để chọn riêng cho mình một con đường, con đường giải thoát khổ đau, đem lại ánh sáng hào quang chiếu khắp muôn nơi trong suốt 26 thế kỷ qua. Lời Đức Phật dạy, gương hạnh Ngài là bài học sống động, nhắc nhở chúng ta hãy tận dụng thời giờ quý báu, sức khoẻ còn sung mãn của tuổi trẻ để chu toàn bổn phận của một kiếp người, trước khi tuổi già đến. Tuổi trẻ đầy nhựa sống, đầy nhiệt huyết và nghị lực. Chúng ta nên phát huy những gì mình đang có để sống có ý nghĩa của một kiếp người. Thời gian và tuổi trẻ một khi qua đi, không bao giờ trở lại.