Đức Phật độ tướng cướp
Trong cuộc đời hành đạo của đức
Phật, một trong những câu chuyện sinh động nhất chúng ta ai cũng biết
và một khi đã biết thì không thể nào quên, đó là chuyện đức Phật
cảm hóa tướng cướp Angulimāla được ghi lại trong Trung bộ kinh, số 86
và Trưởng lão tăng kệ (Thera.80).
Câu chuyện này kể lại rằng, ở nước Kosala do vua Pasenadi trị vì, có
tên cướp khét tiếng tên Angulimāla, là tay thợ săn bạo tàn, gặp ai giết
nấy, khiến cho dân làng rất lo sợ. Từ khi có tên cướp này xuất hiện,
khắp mọi xóm làng, thành ấp, quốc độ đều không còn yên ổn nữa. Mỗi
lần giết người, nó cắt ngón tay trỏ phải làm thành vòng hoa mang
vào người. Nó giết cho đến khi nào tràng hoa ấy xâu được 1000 ngón
tay như vậy để trả học phí cho ông thầy dạy.
Một buổi sáng nọ, như thường
lệ, đức Phật đắp y, mang bát, vào thành Savatthi khất thực. Sau khi khất thực
và dùng bữa xong, Ngài quay trở về và đi trên con đường dẫn đến tên cướp Angulimāla.
Những người đi đường và làm đồng, chăn bò gần đó thấy vậy hết lòng
can ngăn, nhưng đức Phật vẫn giữ im lặng, tiếp tục đi, không hề lo sợ.
Thấy đức Phật đang đi một mình, tên cướp Angulimāla khởi tâm giết
Ngài. Nó chỉ chờ có vậy, vì còn thiếu một ngón tay nữa thôi là đủ
túc số cho vòng hoa làm bằng 1000 ngón tay trỏ phải từ 1000 người nó
ra tay sát hại. Nó lấy kiếm và tấm khiên, đeo cung và tên vào, đi theo sau
lưng đức Phật.
Thế rồi đức Phật dùng thần thông làm
cho tên cướp Angulimāla, dầu cho đi với tất cả tốc lực cũng không có thể bắt kịp
Ngài đang đi với tốc lực bình thường. Tên cướp Angulimāla nghĩ: “lạ thật, trước đây ta có thể đuổi kịp
con voi, con ngựa, con nai và cả chiếc xe đang chạy, mà bây giờ không
thể đuổi theo sa môn Cồ-đàm đang đi bình thường”. Tên cướp nói “Hãy dừng lại, Sa-môn! Hãy dừng lại,
Sa-môn!” Đức Phật khoan thai đáp “Ta
đã dừng rồi, này Angulimāla! Và ngươi hãy dừng lại!” Tên cướp nghĩ sa
môn Cồ-đàm không bao giờ nói dối, vậy lời nói này có ý nghĩa gì.
Thế là Angulimāla hỏi, “Người đi mà lại
nói ‘Ta đã dừng rồi’, còn tôi dừng, thì ông nói ‘sao tôi không dừng’
nghĩa là sao?” Đức Phật giải thích “Với mọi chúng sanh, Ta bỏ trượng, kiếm, còn ngươi, không tự kiềm chế,
gieo rắc giết chóc và hận thù, nên ta đã dừng mà ngươi chưa dừng”.
Khi đức Phật nói những lời
này, Angulimāla đứng lặng yên, trầm tư suy nghĩ. Angulimāla hạ giọng và từ tốn
thưa: “Thưa Ngài, tội lỗi của tôi thật
tày trời, tôi có thể quay đầu bằng cách nào?” Thấy Angulimāla đã chuyển
tâm ý, ray rứt với việc làm của mình, đức Phật mở ra một cơ hội cho người
biết quay đầu, bảo sẽ nhận Angulimāla vào tăng đoàn để có thể làm
mới cuộc đời, từ bỏ các việc ác, gội rửa tâm ý trong sạch, dốc
lòng thực hành điều lành. Nghe xong, Angulimāla liền quăng bỏ kiếm và
khí giới xuống vực sâu, đảnh lễ đức Phật, xin được xuất gia. Từ đó, tên
sát nhân khét tiếng thành Savatthi đã trở thành đệ tử xuất gia của đức Phật.
Tôn giả Angulimāla tinh tấn thực hành pháp dưới sự hướng dẫn của đức
Phật và chúng tăng, chẳng bao lâu, chứng đạt trạng thái giải thoát hoàn toàn.
Đức Phật sử dụng thần thông
Trường hợp độ tướng cướp Angulimāla
là một trong vài trường hợp hiếm hoi đức Phật sử dụng thần thông.
Chính sự phi thường của đức Phật bước đầu gây tò mò và rồi có
khả năng cảm hóa tướng cướp bạo
tàn này chịu đối thoại với đức Phật thay vì với bao nhiêu người
trước đó, hễ gặp mặt là tên cướp này liền giết một cách vô cảm, chặt ngón tay kết thành vòng hoa, rồi tiếp tục đi tìm đối tượng
khác để giết. Với một tên sát nhân máu lạnh như vậy, sử dụng biến
hóa thần thông là điều vô cùng cần thiết và hợp lý.
Thế nhưng, thần thông biến hóa này
cũng chỉ được sử dụng rất hạn chế như một phương tiện để hỗ trợ quá
trình cảm hóa, giáo hóa và giúp người chuyển hóa mà thôi. Cái mục
đích rốt ráo, cứu cánh của đức Phật là đưa Angulimāla ra khỏi quỹ
đạo sống tội lỗi, tà kiến, mê si và đặt người này vào con đường
thực hành chánh pháp. Đức Phật đã tương kế tựu kế để có thể gởi bức
thông điệp có tác dụng đánh động mạnh
mẽ tâm thức của Angulimāla, rằng “Ta đã dừng từ lâu; còn ngươi
thì chưa dừng”. Đức Phật đã thành công trong việc “trước dùng dục câu dắt,
sau dùng trí để nhổ”, trước Ngài thể
hiện thần thông, nhằm thỏa mãn lòng ham muốn hiếu kỳ của tướng cướp
này, sau Ngài dùng tâm từ bi và trí tuệ để nhiếp phục Angulimāla.
Nhìn cả quá trình cảm hóa này, ta thấy nhờ những lời khai tâm mở
trí của đức Phật mà một tướng cướp khát máu đã trở thành một vị
tỳ kheo trong tăng đoàn. Đây là gì mà không phải giáo hóa thần thông?
Trong suốt cuộc đời giáo hóa
chúng sanh với mục đích giúp người chuyển mê khai ngộ, đức Phật chỉ
chú trọng đến giáo hóa thần thông, còn biến hóa thần thông và tha
tâm thần thông, Ngài cho rằng sẽ đưa đến nhiều nguy hiểm nếu lạm dụng
chúng (Tăng chi bộ kinh, chương Ba pháp,
phẩm VI, kinh 60). Học từ Ngài, để không lạc lối hoặc đi quá xa
với chánh pháp và con đường hoằng pháp, chúng ta cần phân định rõ
ràng đâu là mục đích, đâu là phương tiện để vững tin trên con đường
thực hành và truyền bá chánh pháp. Nếu chỉ dừng lại ở việc “dùng
dục câu dắt” mà không phát triển vế “dùng trí để nhổ”, tức là ngầm
nhận phương tiện làm mục đích, thì đây không phải là chánh pháp của
Phật. Những ai thực hành đúng theo chánh pháp, càng lúc càng bớt
tham, bớt ràng buộc, thêm bình an và hạnh phúc. Ngược lại, một khi
lấy phương tiện làm mục đích, ta sẽ bị tham dục kéo lôi trở về đời
sống tầm thường, suốt ngày lăng xăng với việc không chính đáng và
không cần thiết, càng ngày càng xa mục đích giải thoát. Cho đến khi
đi quá xa, giật mình nhìn lại, ta sẽ không còn cơ hội quay về với
chánh pháp vì sức khỏe, thời gian và sức lực đã đến hồi cạn kiệt
rồi.
Do vậy, tất cả những gì chúng
ta làm đều hướng đến quá trình thực hành và giúp người khác cùng
thực hành trên lộ trình chuyển xấu ác thành thiện lành, đảo điên
thành tĩnh lặng, mê mờ thành trí tuệ, khổ đau thành hạnh phúc mới
đúng là thực hành chánh pháp.
Năng lực của sám hối
Câu nói của đức Phật với Angulimāla “ta đã dừng từ lâu mà ngươi chưa dừng; với chúng sanh, ta đã
dừng sự giết hại, còn ngươi chưa dừng việc gây khổ đau, sát hại
chúng sanh” đã có tác dụng lớn và đưa đến hiệu quả không ngờ:
Angulimāla bắt đầu biết dừng! Tâm hối lỗi, ăn năn tận đáy lòng của
tên cướp máu lạnh được đánh động và sự chuyển biến tâm thức theo
chiều tích cực nhờ vào oai đức của đức Phật là bài học quý cho
tất cả chúng ta. Angulimāla đã thật sự hoàn lương sau khi được đức
Phật khai thị và biểu hiện cho
thái độ quay đầu này là liền vứt hết hung khi xuống vực sâu, quỳ
xuống đảnh lễ đức Phật xin sám hối và xin gia nhập tăng đoàn, nguyện
trọn đời sống phạm hạnh theo đức Phật và chúng tăng.
Angulimāla đã thực hiện trọn vẹn
nghĩa cử sám hối đúng nghĩa, một thái độ tự phê bình rốt ráo. Sám
hối theo đúng nghĩa của từ này – áy náy, hối hận với lỗi lầm đã
tạo, răn mình từ nay chừa bỏ sai phạm tương tự – chỉ thật sự diễn ra
trong tâm khi người ấy có sự thay đổi từ trong nhận thức và tiếp đó
là thái độ rồi dần ảnh hưởng đến hành vi. Việc này không phải dễ
dàng vì những hành động quen theo hướng nhất định nào đó sẽ tạo nên
một lực quán tính, như chiếc xe lao về phía trước theo hướng nó đang
vận hành. Do vậy, cần một tác động lớn từ bên ngoài tạo lực cản, cộng
với sự nỗ lực lớn từ bên trong mới có thể làm được việc khó làm
này. “Dừng lại” với Angulimāla là kết quả tuyệt vời của một sự
phối hợp giữa nội công và ngoại kích như thế.
Điều kỳ diệu này đã đến đúng
thời và hiện tượng tâm lý “dừng lại” và “quay đầu” diễn ra khi có
sự tác động gây ảnh hưởng đáng kể đến tâm thức mới có tác dụng làm
chuyển hướng của hành vi, suy nghĩ của Angulimāla. Nếu những hành vi
nào đã tạo thành lối mòn phản ứng và biểu hiện theo một quán tính
thì việc thay đổi hành vi này cực kỳ khó. Trong trường hợp Angulimāla,
hành động man rợ hễ gặp người là giết, cắt lấy ngón trỏ tay phải
của nạn nhân, đã được tên cướp này thực hiện gần một ngàn lần rồi,
đã thành một thói quen hành vi nên vô cùng khó bỏ. Thế nhưng, oai lực
của tâm từ mà đức Phật gởi đến Angulimāla đã đánh động tâm thức
tướng cướp này ở tầng sâu thẳm nhất. Sự tác động tâm lý sâu sắc ở
tầng sâu thẳm này tạo nên một sức mạnh phi thường, làm chuyển hướng
toàn bộ nhận thức, thái độ và hành vi của Angulimāla.
Tự tin với nỗ lực tâm linh: “quay
đầu là bờ”
Ít người có thể tin một người cực
ác có thể quay đầu 180 độ để trở thành người tốt, Angulimāla đã làm
được điều này bằng sự quyết tâm cao độ và nỗ lực tâm linh đáng kính
phục. Sự thay đổi triệt để tận gốc của một người cực ác là điều tưởng
chừng không thể. Chính vua Pasenadi và nhiều người khác cũng không ngờ
về sự thay đổi ngoạn mục trong tâm thức và hành vi của một có quá
khứ vấy máu như vậy. Khi đức Phật hỏi vua Pasenadi rằng, nếu thấy
Angulimāla cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ nói láo, ăn một ngày một
bữa, sống phạm hạnh, giữ giới, hành trì thiện pháp, thì nhà vua phản ứng
thế nào. Vua Pasenadi nói là sẽ đảnh lễ và cúng dường như bất kỳ
vị tăng nào. Nói là nói vậy nhưng vua Pasenadi không tin điều này tí
nào, nên khi đức Phật chỉ một vị tăng đang hành thiền miên mật và
bảo đó là Angulimāla thì vua Pasenadi hoảng sợ, lông tóc dựng ngược.
Đây là phản ứng chung của hầu hết chúng ta. Khi nghe một tên trùm
giang hồ nào đó trở thành một người xuất gia tu hành nghiêm túc, ta
liền nói “được vậy tôi quỳ lạy, cúng dường trọn đời luôn đó”. Câu
nói này chứa đựng thái độ không tin đó là sự thật.
Thế mà Angulimāla đã làm được
việc khó tin ấy. Sự nỗ lực và thành công của Angulimāla từ một tên
cướp khét tiếng hung bạo đến một bậc thánh tăng đã khơi dậy niềm tự
tin của tất cả chúng ta. Quay đầu là bờ, nếu chúng ta nỗ lực vượt
bậc, dùng nội lực làm lực đẩy để quay 180 độ, ta sẽ thấy bờ, hướng
đến bờ và bơi vào bờ. Nếu tự tin để vượt qua mặc cảm tội lỗi của
chính mình, nếu tự tin để vượt qua sự nghi ngại của người ngoài, ta
sẽ biết cách lội ngược dòng một cách ngoạn mục để về đích. Không
bao giờ muộn đối với người biết hồi đầu hướng thiện. Tướng cướp
Angulimāla mà còn có thể quay đầu tu hành chứng quả thánh, hà huống
như chúng ta, những người tuy còn lỗi lầm, nhưng vẫn chưa ác đến mực
tột độ như Angulimāla.
Hơn nữa, ta cũng thay đối thái
độ với người khác qua câu chuyện sống động này. Ta nên có cái nhìn
tích cực vào sự nỗ lực và quyết tâm làm mới của tất cả mọi người. Ta học từ thực tế sinh động
này, tập mở lòng mong chờ và đón nhận sự đổi thay theo hướng tích
cực từ người khác. Người phạm lỗi lầm không phải là xấu, lỗi lầm
mới xấu. Nếu ta quá khắt khe, nhìn người theo kiểu “chụp hình” – in
trong trí một hình ảnh nào đó mà bỏ qua sự thay đổi, sống động,
vận hành liên tục của cuộc sống, trong đó có sự thay đổi của con
người lầm lỗi ấy, là một điều không nên. Vào thời điểm nào đó, họ
mắc sai lầm, bây giờ, có thể họ đã sửa đổi và tiến bộ rồi thì
sao? Ta không nên đóng khuôn nhận thức vào hình ảnh ta “chụp” được tại
một thời điểm nào đó trong quá khứ để rồi lấy đó làm cơ sở để
nhận thức và hành xử trong hiện tại. Một khi thay đổi nhận thức,
hành vi theo đó thay đổi theo, Angulimāla làm được, người khác cũng có
thể, tại sao không?
Nghiệp và quả của nghiệp
Angulimāla đã nỗ lực chuyển
nghiệp trên phương diện “con người là chủ nhân của nghiệp” (Kinh Tiểu nghiệp phân biệt, Trung bộ
kinh, số 135, Tăng chi bộ kinh, Chương V, phẩm VI, kinh số 57 và nhiều kinh khác). Trên thực tế, nghiệp được chuyển hay không và
chuyển với tốc độ nào, tới mức độ thế nào còn tùy thuộc vào thái
độ và quyết tâm của chúng ta đối với nghiệp của mình. Angulimāla đã
làm được điều tuyệt vời, chuyển đổi toàn bộ đời sống của bản thân,
từ một tên cướp gây khổ đau cùng tột, là nỗi ám ảnh của nhiều
người đã trở thành một vị thánh tăng đem lại an vui hạnh phúc cho bao
kẻ. Sự thay đổi triệt để tận căn cội trong tâm thức của Angulimāla
được ghi lại khá kỹ trong Trưởng lão tăng kệ (kệ số 879 đến kệ số 891) khi tôn giả Angulimāla trải nghiệm
đời sống đầy ý nghĩa của một vị thánh đệ tử Phật ngày đêm tinh
tấn không phóng dật, an trú trong chánh niệm, nhiếp phục thân, miệng,
ý thanh tịnh, giải thoát hoàn toàn, đặt gánh nặng sanh tử xuống,
chứng nghiệm hạnh phúc tối thượng. Điều này tạo niềm tin cho chúng
ta về sự làm mới, thay đổi theo hướng tích cực để chuyển nghiệp ác
thành nghiệp thiện và hẳn nhiên giáo dục đóng một vai trò không nhỏ trong
quá trình chuyển nghiệp này.
Kinh Angulimāla, Trung bộ kinh, số 86 ghi lại rằng, sống trong hạnh
phúc giải thoát, mỗi sáng, Angulimāla thảnh thơi từng bước chân chánh
niệm đi vào thành Savatthi khất thực. Angulimāla đã trở thành một con
người hoàn toàn khác, với nội tâm tĩnh lặng, chan chứa tình thương
yêu. Tuy nhiên, do những lỗi lầm đã gây tạo trước đó, Ngài vẫn phải
chịu phẫn nộ của nhiều người. Có người ném đất, có người ném đá vào
Ngài, có người lấy gậy đánh Ngài vỡ đầu, và khi về đến tinh xá, Ngài bị lỗ đầu,
chảy máu, bình bát bị bể, y áo bị rách. Trong tình trạng đáng thương này,
đức Phật khuyên dạy Angulimāla rằng, “hãy
kham nhẫn. Ông đang gặt hái ngay trong hiện tại quả báo của nghiệp mà đáng lẽ
Ông phải chịu nấu sôi ở địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, thậm chí nhiều
ngàn năm”. Angulimāla hoan hỷ tin nhận lời Phật dạy và tinh tấn
thực hành pháp, hoan hỷ trả nghiệp xưa mà không một lời than trách.
Như vậy, bài học về giáo lý
nghiệp và nghiệp quả rõ ràng hơn qua trường hợp của tôn giả Angulimāla.
Với nỗ lực cá nhân, quyết từ bỏ những hành động gây đau khổ cho
người, dồn hết thời gian và năng lực vào việc thực hành chánh pháp,
tinh tấn không phóng dật, tôn giả Angulimāla đã chứng quả thánh sau
một thời gian xuất gia làm đệ tử Phật, tự thân trải nghiệm những an
lạc, hạnh phúc của đời sống giải thoát. Tuy nhiên, những nghiệp cũ
đã gieo, thương đau đã tạo ra cho bao gia đình, tôn giả Angulimāla không
thể tránh khỏi sự phẫn nộ từ
người thân của những nạn nhân. Đây là quả báo phải trả, dù đã chứng
thánh quả. Đúng là:
“Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp”. Pháp cú 127
Hiểu được điều này, ta không than
oán, trách móc hoặc đổ thừa trách nhiệm cho người nào hoặc hoàn
cảnh nào mà thản nhiên chấp nhận trong mọi tình huống cuộc sống với
tâm nhẫn chịu, hoan hỷ và tràn đầy yêu thương. Ngẫm cho cùng, nhẫn
nhục với nghịch cảnh và hoan hỷ với những điều không như ý trong
cuộc sống là cách để chúng ta sám hối lỗi lầm đã gây tạo trong quá
khứ. Với thái độ này, chúng ta không lung lay ý chí, vượt qua những
thử thách, khó khăn – vốn là một
phần không thể thiếu của cuộc sống – một cách dễ dàng hơn và tinh
tấn không nản lòng trên con đường chuyển hóa tâm thức và thay đổi hành
vi của mình.
Năng lực của tâm từ
Với tâm từ và tâm bi, thương cảm
một người vì tà kiến mà đi lạc vào con đường tội lỗi, đức Phật
dùng thần thông để tiếp cận Angulimāla. Tiếp đó là những lời giải
thích, phân tích chan chứa tình yêu thương và cảm thông dành cho một
người sa chân lạc lối như Angulimāla. Chính sức mạnh của tâm từ bi lay
động trái tim kẻ sát nhân có tác dụng như một lực cản giúp
Angulimāla “dừng lại” – dừng hành động sát hại, gây đau khổ bấy lâu
nay. Chính Angulimāla cũng xác nhận, nhiều người có thể được cảm hóa
bằng đao, bằng trượng, nhưng bản thân Angulimāla được cảm hóa bằng
những lời giáo huấn đầy tâm từ của đức Phật (Trưởng lão tăng kệ, câu số 878). Đúng vậy, sức mạnh đao
kiếm, Angulimāla đã có thừa, cộng thêm với sự tàn bạo, sức mạnh kia
được nhân lên gấp bội, nên sức mạnh của vũ lực không thể nào có khả
năng nhiếp phục tên cướp khét tiếng này. Duy chỉ có tình yêu thương
xuất phát tận đáy lòng của hiểu biết và cảm thông có sức mạnh lớn
hơn bất cứ loại vũ khí gì. Chính tình yêu thương rộng lớn, uyển
chuyển của đức Phật đã chảy đến mọi ngõ ngách của tâm hồn và chạm
đáy con tim tưởng chừng khô cứng của tên sát nhân. Khi tâm từ nơi đức
Phật tưới tẩm trái tim nhiều đau khổ vì mê muội của Angulimāla, mọi
sự thay đổi bắt đầu một cách kỳ diệu đến không tưởng. Với tâm từ,
đức Phật đã thành tựu giáo hóa thần thông trong việc nhiếp độ Angulimāla.
Đổi đời nhờ gội nhuần trong tâm
từ của đức Phật, Angulimāla đem trải nghiệm này ứng dụng trong cuộc
sống, trải tâm từ đến chúng sanh đau khổ. Khi bị ném đất, đá, bị
đánh bằng gậy gộc đến bị thương trên đường đi khất thực, đức Phật
dạy Angulimāla “hãy khởi tâm từ bi đối
với tất cả chúng sanh”, Angulimāla thực hành theo lời đức Phật dạy,
khởi tâm từ đến những người ấy. Dù họ coi Ngài như kẻ thù, Angulimāla
vẫn mong họ không hại người nào,
có duyên gặp chánh pháp, gần gũi bậc an tịnh nội tâm, sống nhẫn
nhục, nhu hòa và biết thực hành chánh pháp (Trưởng lão tăng kệ, câu số 874-876).
Một sự kiện nổi bật khác được
ghi lại trong kinh rằng, một hôm trên đường đi khất thực ở Savatthi, tôn
giả Angulimāla thấy một người phụ nữ đang sanh đẻ, rất là nguy kịch và đau đớn.
Thấy vậy, tôn giả khởi tâm từ thương xót, nghĩ rằng “Thật đau khổ thay các chúng sanh!” nhưng không biết giúp bằng
cách nào. Khất thực xong, tôn giả Angulimāla trở về tinh xá bạch Phật.
Với tư cách một người cố vấn, Ngài liền hướng dẫn Angulimāla cách
rải tâm từ để giúp người phụ nữ đang chịu đựng đau đớn ấy. Kết quả
là người phụ nữ ấy sinh đẻ an
toàn.
Môi trường giáo dục đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển nhân cách một con người. Nhận gì,
cho nấy là điều dễ dàng nhận thấy như là một sản phẩm không thể
khác trong quá trình giáo dục. Một đứa trẻ được nuôi dưỡng trong bạo
lực sẽ trở thành người thích sử dụng bạo lực với kẻ khác. Cũng
như vậy, Angulimāla được đức Phật cảm hóa bằng tâm từ, sau khi vào
tăng đoàn, tôn giả Angulimāla cũng sống và hành xử với tâm từ khi kham
nhẫn chịu đựng những hành động phẫn nộ từ nhiều người trên đường đi
khất thức và câu chuyện giúp người phụ nữ sắp sinh con vượt qua sự
đau đớn và sinh đẻ an toàn là một điển hình.
Năng lực của hồi hướng
Bằng cách rải tâm từ hướng đến
người phụ nữ đang đau đớn trong cơn chuyển dạ, tôn giả Angulimāla đã
giúp được người phụ nữ này mẹ tròn con vuông, an toàn tính mạng.
Kinh kể lại rằng, khi chứng kiến sự đau đớn và không dễ chịu của
người phụ nữ, Angulimāla liền về trình với đức Phật mong tìm cách
giúp đỡ. Đức Phật bảo Angulimāla trở lại thành Savatthi gặp người
phụ nữ ấy và nói “này Bà chị, tôi từ
khi sanh ra chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với
sự thật ấy, chị được an toàn, và sanh đẻ được an toàn!” Angulimāla không đồng ý và cho rằng như vậy là cố
ý nói láo, vì tôn giả đã cố ý giết hại mạng sống rất nhiều chúng sanh rồi.
Khi ấy, đức Phật dạy, hãy đến bên người phụ nữ ấy, nói thế này “Này chị, tôi từ khi được Thánh sanh đến nay
chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy,
chị được an toàn và sanh đẻ được an toàn”. Thế là người phụ nữ được
an toàn, mẹ tròn con vuông.
Ngày nay, phật tử ở các nước
theo truyền thống Phật giáo nam truyền, phổ biến nhất là ở Sri Lanka,
thường đọc tụng lời chúc lành này của tôn giả Angulimāla như lời cầu
an cho người phụ nữ đang mang thai, nhất là trong giai đoạn sắp sanh
cũng như trong nhiều trường hợp chúc lành khác. Nguyên văn tiếng Pāli như
sau:
Yato'haṃ bhagini ariyāya jātiyā jāto,
Nābhijānāmi sañcicca pāṇaṃ jīvitā
voropetā,
Tena saccena sotthi te hotu sotthi
gabbhassa.
Lời chúc lành gồm 18 từ này
phổ biến trong giới phật tử các nước theo Phật giáo nam truyền như
bài chú đại bi ở các nước theo Phật giáo bắc truyền vậy. Phật tử
tin rằng với sự thành tâm, lời chúc lành này là cách chia phước,
hồi hướng công đức mình có đến người khác để năng lượng an lành này
được chuyển đến đối tượng mình muốn.
Công đức tu tập tạo một nguồn
năng lượng lớn và nguồn năng lượng này có thể chia sẻ được. Trong trường
hợp của tôn giả Angulimāla, năng lượng công đức có được từ khi Angulimāla
xuất gia làm đệ tử Phật, không bao giờ khởi tâm cố ý giết hại mạng
sống của chúng sanh. Câu chuyện này cùng với câu chuyện duyên khởi
của bài kinh Lòng từ (Kinh tập, I.8)
là những chứng cứ xác quyết năng lực bình an có thể hiến tặng đến
người khác qua cách hồi hướng. Hiệu ứng cho-nhận này tùy thuộc vào
năng lượng tu tập của người cho, tâm thành của người cho và năng lượng
tiếp nhận của đối tượng. Một điều kỳ diệu là năng lượng bình an
này càng cho đi, chủ nhân của nó càng có nhiều hơn. Có vẻ hơi khó
hiểu nếu ta đem việc này so sánh với vật chất, không có thứ gì cho
đi mà còn lại nhiều hơn. Thế nhưng, nếu so sánh với hạnh phúc thì ta
dễ dàng cảm nhận và chấp nhận rằng, năng lượng bình an, cũng như
hạnh phúc, là thứ càng cho đi, càng được nhiều hơn. Người biết chia
sẻ năng lượng bình an là người có tâm từ, mà đã có tâm từ thì khi đem
lại người khác năng lượng bình an, lòng người ấy cảm thấy hạnh phúc
và bình an nhiều hơn. Bình an là cái vô tận, vô biên, đừng sợ thiếu
mà không chia sẻ. Hãy chia sẻ với tâm bình đẳng để bình an và hạnh
phúc nhiều hơn.
Chân sư và tà sư: muôn trùng khác
biệt
Chuyện Angulimāla gợi cho ta ý
niệm về tầm quan trọng của người thầy đối với đệ tử trong quá
trình tu tập. Người thầy có vai trò định hướng, mở mắt cho người
học nhận thức và trực tiếp tác động đến thái độ và hành động của
người ấy. Trong trường hợp của Angulimāla, khi chưa gặp đức Phật, Angulimāla
theo thầy tà và đường đời lạc lối từ đây. Những hành động sai lầm,
tội lỗi với quyết tâm xâu cho bằng được một tràng hoa làm bằng 1000
ngón tay trỏ phải của nạn nhân để làm học phí cho thầy. Angulimāla
theo sự hướng dẫn của người thầy tà và trở thành một tên sát nhân
tàn bạo. Sau đó, nhờ gặp đức Phật, Angulimāla đã biết quay về con
đường chân chánh, đạo đức, sống ý nghĩa một đời. Đời của tướng
cướp khát máu chuyển hướng từ đây. Duy trì đời sống đạm bạc về nhu
cầu, tĩnh lặng trong tâm thức và giải thoát mọi ràng buộc, chấm dứt
mọi nhân đưa đến sanh tử luân hồi là mục đích sống của vị tôn giả
này. Sự tinh tấn không phóng dật dưới sự che chở, nâng đỡ và hướng
dẫn chan chứa tâm từ của đức Phật – bậc chân sư bậc nhất trong các
bậc chân sư – đã đưa Angulimāla thành một vị thánh đệ tử gương mẫu,
giải thoát sanh tử, an lạc hạnh phúc giữa cõi đời. Tôn giả Angulimāla
ví sự “dừng lại” và quay đầu của Ngài như trăng ra khỏi mây mù, tỏa
sáng khắp nhân gian (Trưởng lão tăng
kệ, câu số 871-873; Pháp cú, kệ số 172, 173 và 382).
Thầy không phải là người tạo ra những
bộ óc cho học trò, cũng không phải là người nhét vào đầu người học một mớ thông
tin, kiến thức nào đó một cách máy móc, mà có vai trò hướng đạo nên cách
thầy dạy sẽ định hướng cho cả một chặng đường dài của cuộc đời. Với
người học đạo, vai trò này còn quan trọng hơn nhiều. Với vai trò
này, cần lắm một bậc thầy không những có kiến thức mà còn có đạo
đức, không chỉ có kỹ năng chuyên môn mà còn có cái tâm rộng lớn để
có thể thấu hiểu tâm lý và thâu nhiếp tất cả với lòng cảm thông,
tha thứ, kiên nhẫn và toàn tâm toàn ý hướng đến sự lợi ích, an lạc
và hạnh phúc của học trò. Cái người học cần tiếp thu từ người
thầy là kỹ năng khơi dậy và phát triển tất cả những phẩm cách tốt và
nghệ thuật sống bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Vẫn biết mỗi
người phải tự thắp đuốc lên mà đi ( Kinh
đại bát niết-bàn, số 16 Trường bộ kinh; Kinh Tự mình làm hòn đảo,
Tương ưng bộ kinh, tập III, chương I, phẩm V), nhưng ngọn đèn ấy cần
được thắp lên từ lời dạy chân chánh của người thầy. Do vậy, có được
một bậc chân sư giúp chúng ta mở mắt, mở tâm trên con đường tu học là
hạnh phúc lớn nhất của người đang bước trên lộ trình tâm linh.
Đức Phật hội đủ tất cả yếu tố
của một bậc thầy lý tưởng nhất qua mọi thời đại mà câu chuyện giáo
hóa tướng cướp Angulimāla là một điển hình chứa đựng nhiều bài học
quý vừa trình bày ở trên.