Trong bài kinh Tâm từ
được ghi lại trong Kinh Tập I.8, phần đầu của bài kinh này nói đến
những điều kiện cần thiết để một người có thể thực hành tâm từ –
tâm thương yêu rộng lớn, không giới hạn, không phân biệt, không điều
kiện – đối với tất cả. Chúng ta cần trang bị cho mình những phẩm
chất này nếu muốn phát triển tâm thương yêu của mình ngày càng rộng
lớn để có thể trải tình thương cao quý ấy đến nhiều người, thậm
chí nhiều loài sinh vật trên thế gian này.
Đức Phật kể đến 15
phẩm chất cần có khi muốn thực hành tâm từ một cách hiệu quả:
1. Phải là người có năng lực
Năng lực ở đây chỉ cho khả
năng yêu thương, một yếu tố vô cùng quan trọng để có thể thực hành
tâm từ. Nếu không có năng lực,
chúng ta sẽ rơi vào hoàn cảnh mà người ta quen gọi là “lực
bất tòng tâm”. Do vậy, “lực” trở thành yếu tố quyết định kết quả
và hiệu quả công việc. Chẳng hạn một người vô đạo đức không thể có
hành động và lời nói đạo đức đối với người khác được, bởi vì bản thân
họ không có chất liệu này thì làm sao họ có thể đem cho người khác
thông qua hành động hoặc lời nói? Họ cũng không thể khuyến khích, kêu
gọi người khác sống đạo đức, vì chất liệu đạo đức không có nơi bản
thân họ, thì lấy gì làm cơ sở để lời nói của họ có trọng lượng mà kêu
gọi? Cũng giống như một người vô sản không thể giúp người khác khi
ngặt nghèo vì người ấy không sở hữu tài sản nào, thậm chí không thể
tự lo cho bản thân, thì tính gì đến việc giúp người khác.
Năng lực thương yêu là
tài sản bên trong, không phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài, là
nguồn năng lượng liên hệ đến tiềm năng của mỗi một cá nhân. Biết
kích hoạt nguồn yêu thương và phát triển tiềm năng thành khả năng thật
sự đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì, bền chí, mới có thể hành động từ con
tim có sức dung chứa lớn mà không phân biệt gì cả. Chỉ khi nào tâm có
đủ năng lượng ôm trọn tất cả mọi sinh vật sống, ôm trọn đau khổ của người,
thương yêu “người dưng” như thể những người thân yêu của mình thì tâm đó
mới có thể gọi là tâm từ vô lượng.
2.
Phải là người cương trực
Cương trực là biểu
hiện của người chân thật. Bản chất của sự thật là thẳng thắn, do vậy, con đường
thẳng dành cho người chân thật, vì những người này luôn trân trọng và
yêu quý sự thật. Sự thật thì chỉ có một, đơn giản và thuần khiết,
nên chỉ cần thong dong bước trên con đường thẳng, rộng rãi, quang đãng
chứ không mạo hiểm tìm “những chốn đoạn trường mà đi”. Những người
có lòng thương yêu thật sự, lòng thương yêu không vụ lợi là người
thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy và làm đúng như đã nghĩ và nói. Họ
là những thỏi vàng ròng không pha tạp ở đời. Chỉ có người giả dối,
xảo quyệt mới chọn đi trên những nẻo đường ngoằn ngoèo, zích zắc
nhằm dẫn người khác vào mê hồn trận để tung hỏa mù đánh lạc hướng,
che đậy những việc làm đen tối, dơ bẩn. Người khéo che đậy tâm ý xấu
xa dưới lớp hành động có vẻ như nhân đạo với thủ thuật đầy tiểu
xảo không thể nào tiếp cận lòng thương yêu chân thật vốn nằm sâu trong
đáy lòng họ.
Tình thương yêu vô điều
kiện của tâm từ nằm tận đáy con tim, chỉ có thể đi ra ngoài cơ thể ta
và chạm vào trái tim người khác bằng con đường thẳng của chân
thật. Nếu con đường đi khúc khuỷu gập ghềnh thì năng lượng tâm từ ấy bị mắc
kẹt trong các ngõ ngách, bị bào mòn trên đường đi và không đủ lực để
chạm đến trái tim người khác. Đây là một thực tế mà chỉ những ai
có kinh nghiệm về phương diện này mới có thể hiểu và chấp nhận
được. Với đường đi thẳng trong tâm, người ấy mới có thể lưu dẫn tình
thương yêu từ trái tim đến trái tim. Con người ta cần tình thương, sự thông
cảm, chia sẻ vì đây là một thuộc tính tâm lý của con người, song
những gì ta có thể cho là tình thương yêu thật sự xuất phát từ trái tim
cương trực mà thôi. Một trái tim thiếu thẳng thắn, vòng vo là trái
tim có dị tật và ta không thể mong gì ở người có trái tim như thế.
Do vậy, sự thẳng thắn là điều kiện cho một trái tim có tình yêu
thương lành và mạnh.
3.
Chân thật tuyệt đối
Chân thật tuyệt đối là
một một phẩm chất tuyệt vời mà không phải ai cũng có thể làm được. Có khi ta ngỡ
mình là người chân thật, nhưng chỉ có thể trong một thời gian dài và trải
qua nhiều tình huống, thử thách để có dịp kiểm chứng ta có chân thật
không và chân thật đến mức nào. Người chân thật tạo nên sự tin cậy và tin
tưởng sâu sắc để chúng ta yên tâm trong giao tiếp. Với người chân thật,
ta sẵn sàng mở lòng để nghĩ đến ngay người ấy như là nơi ta có thể
cần đến mỗi khi gặp rắc rối trong cuộc sống. Nếu gặp phải một
người không chân thật, thì không ai dám đến để chia sẻ hay xin lời
khuyên, lời tư vấn khi gặp phải những khó khăn, thử thách cả.
Người chân thật tuyệt
đối là mẫu người sống có nguyên tắc, có lòng tự trọng và can đảm,
có hiểu biết sâu rộng để có thể vững vàng giữ tâm trong sáng, chân
thật của mình mà không bị lung lay trước những thử thách, lôi kéo từ
bên ngoài. Chỉ những người chân thật mới biết cách thương thật lòng,
thương vô tư, thương không tính toán, không mục đích vị kỷ cho mình và
chúng ta có thể yên tâm nghĩ đến họ khi cần đến sự giúp đỡ tại một
thời điểm nào đó, khi bước chân mình vì một lý do gì đó trở nên
chệch choạng không còn vững chãi trong cuộc đời này.
4. Phải là người nhu hòa
Nhu hòa là tính cách hòa
đồng, dễ thương, dễ gần của một con người. Người nhu hòa không cứng
cỏi, ương bướng, mà là người dễ dàng lắng nghe người khác với sự
tôn trọng. Lắng nghe là một nghệ thuật sống của người nhu hòa. Một
khi có người biết lắng nghe nỗi khổ niềm đau của ta với lòng cảm
thông, thương cảm, ta sẽ không ngại mở lòng, cho bao nhiêu nặng nề chất
chứa trong tâm có dịp tuôn ra. Chỉ cần được lắng nghe, ta cũng cảm
thấy hạnh phúc, nhẹ lòng nhiều khi những bế tắc được khai thông. Chính
trong sự lắng nghe, tâm thương yêu rộng lớn được chuyển đến đối tượng
đang chia sẻ nỗi khổ niềm đau.
Ai cũng muốn tiếp cận
người nhu hòa vì từ trường tâm linh nhẹ nhàng, thanh thoát của người
ấy như làn gió mát cảm hóa ta. Do vậy, những người có tính nhu hòa
sẽ có nhiều cơ hội để giúp người và thể hiện lòng thương yêu của
mình một cách hiệu quả. Nhu hòa vì thế trở thành một trong những điều
kiện cần thiết để thực hành tâm từ.
5. Nhẹ nhàng
Nhẹ nhàng trong ý
tưởng, lời nói và hành động đem lại hiệu quả tuyệt vời trong mọi
cuộc giao tiếp. Thêm vào đó, cách ứng xử nhẹ nhàng giúp chúng ta
tránh được nhiều xung đột không đáng có. Thô lỗ dễ gây tổn thương đến
người khác. Nếu chúng ta muốn giúp người đang khổ đau, ta cần phải nhẹ
nhàng để đừng tạo cho người ta cảm giác tự ti, mặc cảm và cảm thấy
bị xúc phạm. Nhẹ nhàng là điều mà ngay cả đứa trẻ thơ cũng thích,
huống nữa người lớn! Trẻ em dễ dàng đi vào giấc ngủ với sự vỗ về
nhẹ nhàng tràn ngập yêu thương của người mẹ. Người đang đau khổ sẽ
cảm thấy nhẹ lòng trước cử chỉ, lời nói nhẹ nhàng của người đối
diện. Do vậy, muốn thể hiện tâm từ một cách hiệu quả, nhẹ nhàng khi
tiếp xúc với đối tượng là điều cần thiết.
Trên cơ sở đó, để không
làm tổn thương tâm từ của mình, đồng thời không bỏ lỡ cơ hội giúp
người, chúng ta cần phải bỏ đi tánh kiêu căng, cao ngạo và sân hận vốn
là kẻ thù của nhẹ nhàng. Tánh kiêu căng ở con người như một vết thương hở
miệng, sẽ nhói đau khi có ai chạm đến cái ngã của mình. Người có
tánh này thì khó lòng tiếp cận người khác, nhất là với người đang
chịu đựng khổ đau. Người đau khổ rất có thể hành xử vụng về vì sự bất
an đè nặng lên họ. Có khi tâm lý co rút làm nỗi khổ nén lại thành một
khối khiến họ cộc cằn, không dễ thương. Ta phải thật nhẹ nhàng với
tâm cảm thông sâu sắc, đưa lòng kiêu hãnh về vạch zero mới có thể
tiếp cận và giúp họ được. Tương tự như vậy, một người với tâm sân giận như
đang mang một ung nhọt trong lòng không thể có tình thương yêu rộng lớn
để hiến tặng người khác. Để có thể tiếp xúc được với người đang
gặp rắc rối, cần lắm một tình thương yêu chân thành và rộng mở thông
qua cử chỉ nhẹ nhàng, ánh mắt nhẹ nhàng và tất cả những gì từ con
tim nhẹ nhàng.
6. Không tự cao
Người có tánh tự cao
không thể trải lòng thương yêu đến người khác, chắc chắn là như vậy.
Tại sao? Vì ở người tự cao, chỉ có bản thân họ là quan trọng, họ
là trên hết, với cái nhìn “mục hạ vô nhân” thì chỉ có tự thương
mình và sống đời vị kỷ. Người tự cao chỉ biết nghĩ về mình và
nghĩ cho mình, không bao giờ hiểu được những khó khăn, đau khổ người
khác đang chịu đựng. Họ cũng không thể hiểu và không cần hiểu người
khác đang có nhu cầu gì? Có những điểm sáng nào? Còn những vụng
về nào? Tất cả những vấn đề này
là cơ sở để thực hành tâm từ thì lại thiếu nơi người có tánh tự
cao.
Để có thể thực hành
tâm từ, chúng ta cần tôn trọng người khác, xem người ta cũng quan
trọng như mình, và những khổ đau người khác đang gánh chịu cũng chính
là khổ đau của chính mình thì mới có thể chia sẻ, mới có thể yêu
thương hết lòng được. Do vậy, tự cao và thương yêu rộng lớn là hai thái
cực, không thể nào gặp nhau. Vì lẽ đó, đã là tự cao thì không thể
có tâm từ và có tâm từ thì không tự cao. Vì lẽ đó, không tự cao trờ
thành một trong số những điều kiện để có thể thực hành và nuôi
dưỡng tâm từ.
7. Biết hài lòng
Người biết hài lòng
là người dễ dàng chấp nhận cuộc sống này, bằng lòng với những gì
mình đang có. Người biết hài lòng luôn bình an, tự tại trong cuộc
sống, không lệ thuộc vào các yếu tố bên ngoài vốn không nằm trong
tầm kiểm soát và chi phối của mình. Những người không hài lòng với
cuộc sống hiện tại là người muốn mình trở thành “ai đó” khác chứ
không phải là mình, là người muốn nhiều thứ hơn những gì họ đang có.
Vì muốn quá nhiều, mặc dù cái họ thật sự cần chẳng bao nhiêu, nên họ
luôn bất an vì bị tâm tham chi phối. Ham muốn không được, họ trở nên
bực bội, cáu gắt do tâm sân chi phối. Người mà nhiều tham, nhiều sân
thì không thể thương yêu được ai, không có khả năng cho ai món gì, dù
đó là vật chất hay tinh thần, đừng nói đến tình thương là cái không
hề dễ cho!
Người biết hài lòng
với những gì mình đang có là người biết đủ, ít muốn. Đây là hạnh
của người xuất gia mà đức Phật thường khen ngợi. Trước khi giã từ
cõi đời này, đức Phật ân cần căn dặn các đệ tử Ngài hãy thực hành
hạnh ít muốn, biết đủ này. Người biết đủ dù nằm trên đất cũng cảm
thấy đủ, người không hài lòng thì dù ở thiên đường vẫn chưa lấy làm
thỏa mãn. Người hài lòng với cuộc sống chỉ muốn cho chứ không muốn
nhận thêm gì, cảm thấy dư thừa thời gian, vật chất và tình thương
yêu, sẵn sàng chia sẻ với người khác mà không hề luyến tiếc. Người
không hài lòng với hiện tại luôn tự đày đọa thân tâm chạy theo ham
muốn, tìm cầu và đau khổ. Người đau khổ không thể có hạnh phúc của
bình an. Người như thế không tự biết thương mình thì làm gì có tình
thương yêu để cho người khác?! Do đó, biết hài lòng là một điều kiện
để trải rộng tình yêu thương cao thượng vậy.
8. Dễ dàng cung dưỡng
Chúng ta cần nhớ
rằng, bài kinh này đức Phật dạy cho các đệ tử xuất gia, nên phẩm
hạnh “dễ dàng cung dưỡng” được nêu ra ở đây như một trong những điều
kiện cần thiết để phát khởi và nuôi dưỡng tâm từ. Theo truyền thống,
người xuất gia sống bằng thức ăn khất thực do người cư gia phát tâm
cúng dường. Pháp khất thực là phương thức trao đổi để tạo sự gắn
kết trong quan hệ cho-nhận giữa người xuất gia và người tại gia cư
sĩ, người xuất gia nhận vật thực, cho giáo pháp trong khi đó, người
tại gia cho vật thực, nhận giáo pháp. Trong quá trình này, nếu người
xuất gia dễ chịu trong việc nhận của cúng dường: cúng gì, nhận nấy mà
không khởi tâm khen chê. Ai cho gì, cũng hoan hỷ thì người cúng dường
cảm thấy an tâm và hoan hỷ. Ngay trong nghĩa cử này, người xuất gia
cũng đã thể hiện tình thương yêu đối với người cúng dường vật thực
rồi.
Hiểu rõ mối tương
thuộc giữa người và người trong cuộc sống để cùng tồn tại, nương
vào nhau trong quan hệ cho-nhận để sống cho nhau và sống vì nhau,
người xuất gia dễ dàng chấp nhận những thực phẩm và vật dụng thiết
yếu được đem đến cho mình. Đây là cách thể hiện cảm xúc một cách
chừng mực của người tu, không hả hê vui mừng ra mặt với những gì vừa
ý, cũng không sanh tâm phiền giận bất mãn với những gì không ưa
thích. Dễ dàng chấp nhận sự cúng dường từ phật tử cư sĩ cũng là
cách thể hiện lòng biết ơn thí chủ của người xuất gia. Một khi chấp
nhận dễ dàng, ta không đặt nặng về vấn đề ăn uống hoặc tiện nghi vật
chất của cuộc sống, sao sao cũng được, chẳng hề bận lòng. Người như
vậy mới có được nguồn yêu thương vô hạn dành cho người khác.
9. Ít phận sự
Tâm thương yêu vô hạn,
vô phân biệt, bình đẳng không phải là vốn sẵn có ở trong mỗi người
từ lúc mới sinh ra trên cuộc đời này. Nó cũng không phải tự dưng
tràn ngập lòng ta để rồi muốn cho ai là ta cứ thế mà vốc ra cho bao
nhiêu cũng được! Trải tâm từ – tâm thương yêu không hạn lượng – là một trong những phương cách thiền
định của Phật giáo, thật ra là một kỹ năng: kỹ năng yêu thương. Đã
là một kỹ năng, thì cũng như bao kỹ năng khác, cần phải trải qua một
thời gian luyện tập kiên trì và thực hành thường xuyên mới có thể
thuần thục được. Điều này đòi hỏi chúng ta dành nhiều thời gian để “tập
thương” từ phạm vi nhỏ, mở rộng tâm mình dần dần với nhiều đối
tượng khác nhau. Muốn dành tình thương cho ai đó, nhất thiết ta phải
dành thời gian cho người đó chứ không thể nói suông mà được. Dành
thời gian ở đây không có nghĩa là luôn có mặt bên đối tượng ta yêu
thương, mà là dành thời gian và năng lượng, dốc toàn tâm toàn ý làm
tất cả các việc lành, từ tâm ý đến lời nói và hành động vì lợi
ích và sựa n lành của người ấy.
Để có thể làm được
việc này, ta cần phải chiết một khoản trong “ngân hàng thời gian” để
trải lòng thương yêu đến mọi người. Mỗi ngày, ai cũng có một tài
khoản như nhau trong ngân hàng thời gian của mình là 86 400 giây và tài
khoản này bị mất đi khi bước sang ngày mới. Tất cả thời gian cho những
việc cần làm trong ngày đều lấy từ tài khoản thời gian này. Do đó,
nếu muốn dành nhiều thời gian để thực hành kỹ năng yêu thương theo
lời Phật dạy, ta phải bớt thời gian dùng cho những công việc khác.
Đức Phật cũng thường khuyên các đệ tử xuất gia của Ngài bớt đi
những công việc không liên hệ đến mục đích tu tập giải thoát, những
việc mà khi còn sống đời cư sĩ, ta đã làm nhiều rồi, để tập trung
vào thực hành pháp. Thực hành thiền tâm từ, theo đức Phật, là một
việc làm cần được ưu tiên dành thời gian cho, vì nó giúp ta nuôi
dưỡng tâm lành của mình, đồng thời góp phần kiến tạo một thế giới
an bình. Chỉ có người ít phận sự mới có cơ hội thực hành kỹ năng
yêu thương một cách hiệu quả.
10. Sống thanh đạm
Sống thanh đạm là
người bạn đồng hành với các phẩm hạnh như biết hài lòng với hiện
tại, dễ dàng cung dưỡng (yếu tố thứ 7 và 8 được nêu ở trên), đồng
thời là kết quả tất yếu từ việc thực hành các phẩm hạnh này.
Sống thanh đạm là sống thong dong với việc sở hữu ít tài sản vật
chất, ít lệ thuộc vào sự chi phối của những món tạm bợ, phù du
này. Điều này, cũng như bao phẩm chất đạo đức khác, nói thì dễ mà
thực hành không dễ dàng tí nào, nhất là khi huân tập nó thành một
nếp sống có tính ổn định, bền vững như một thói quen. Sống thanh
đạm là sống bằng lòng với cuộc sống đơn giản, đủ đáp ứng những nhu
cầu thiết yếu nhất của con người. Thực tế, những gì ta cần để duy
trì mạng sống và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của mình ít lắm, ít hơn rất
nhiều so với những gì chúng ta muốn. Người sống thanh đạm có khả
năng làm chủ cảm xúc của mình, không chất chứa những gì không cần
thiết và cảm thấy những thứ này ràng buộc làm cho bước chân trên
đường học đạo của mình càng nặng nề thêm.
Cái này có, cái kia có; cái này sanh, cái
kia sanh là một quy luật muôn đời. Ta tạo ra của cải tài sản, ta sở
hữu chúng thì chắc chắn ta có sự gắn bó, thích thú, chấp giữ
chúng và sẽ làm nỗi ám ảnh nếu chỉ nghĩ đến lúc chúng hư hoại
hoặc vì một lý do nào đó không còn ở với chúng ta nữa. Và khi sự
thật diễn ra, một số hoặc tất cả những thứ này mất đi, ta chao đảo,
bất an, nuối tiếc, phiền giận xâm chiếm tâm hồn. Do đó, yêu thương
không có chỗ trú ngụ trong một tâm thức chứa đầy các thuộc tính tâm
lý tiêu cực ấy. Chỉ khi nào biết hài lòng với cuộc sống thanh đạm,
ít để tâm, ít bị chi phối của tiền tài danh vọng thì ta mới có
tình thương yêu rộng lớn để tưới tẩm tâm mình và trải tình thương ấy
cho mọi người được.
11. Các căn thanh tịnh
Tình thương yêu không
phải làm một thứ trang sức đính kèm vào con người chúng ta mà đó
là một chất liệu bên trong, góp phần tạo nên con người mình. Chất
liệu này chỉ có thể gom tụ lại thành một khối có sức mạnh khi tâm
chúng ta an tịnh, trong sáng, không vẩn đục. Khi tâm an định, các căn
gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý theo đó cũng thanh tịnh. Nước
trong từ nguồn thì khi chảy ra thành sông, hồ, ao, rạch gì cũng trong
lành như vậy.
Khi các căn thanh tịnh,
tâm chúng ta có sự điềm tĩnh, có một nội lực vững chãi để tâm không
bị lôi bên này, kéo bên kia vì sự hấp dẫn, quyến rũ của các pháp
trần qua các cửa ngõ giác quan. Biên độ dao động của tâm đối với các
pháp vừa ý và pháp không vừa ý cũng không lớn, bởi vì khi tâm có sự an
định, tham (đối với pháp trần ưa thích) và sân (đối với pháp trần
không ưa) không chi phối, sai sử chúng ta. Một khi các căn thanh tịnh, trong
trạng thái tĩnh lặng, tâm không hề bị chi phối, không mệt mỏi, mà tràn
đầy năng lượng để tập trung cho các kỹ năng tích cực như yêu thương.
Đây là trạng thái tâm phù hợp nhất để có thể trải yêu thương đến
người khác.
12. Thận trọng khôn ngoan
Thận trọng, khôn ngoan
là sự cân nhắc, nhìn thấu vấn đề với sự soi rọi của trí tuệ trước
khi hành động, đang khi hành động và sau khi hành động. Thực hành tâm
từ mà không có trí tuệ thì rất nguy hiểm, lại không có lợi ích cho
người thực hành cũng như người nhận, trái lại đem đến phiền toái không
đáng có. Thận trọng khôn ngoan là biết những gì cần làm là thích hợp
nhất đối với một đối tượng nào đó tại một thời điểm nhất định
nào đó. Với một người đói lả, lòng yêu thương thiết thực nhất là
cho họ cái gì đó để ăn cho đỡ đói. Với người đang có tâm trạng nặng
nề, đau khổ thì dành thời gian lắng nghe với tâm cảm thông là điều
cần thiết. Nghe thì có vẻ dễ nhưng không phải lúc nào ta cũng hợp
lý trong cách hành xử của mình trong quá trình thể hiện tâm từ.
Thận trọng khôn ngoan
là biết rõ những điều kiện tốt nhất để nuôi dưỡng tâm thương yêu của
mình, đồng thời những việc làm thiết thực phát khởi từ tâm thương
yêu ấy đem lại hiệu quả tích cực cho người, giúp ta và người sống
bình an hơn, thanh thản hơn và hạnh phúc nhiều hơn. Thiện chí thôi chưa
đủ để tâm từ đem lại kết quả tốt, mà cần lắm một sự nhìn nhận
thấu suốt vấn đề của người nhìn xa trông rộng. Chỉ lỗi giúp người
khác là một thiện chí; nhưng điều này sẽ không đưa lại kết quả,
ngược lại có thể phá vỡ mối quan hệ giữa người và người nếu ta
chỉ lỗi không đúng lúc, không đúng nơi và tệ hơn nữa là không đúng
đối tượng. Nếu sai lầm xảy ra trong quá trình thực thi tâm từ vì
thiếu sự thận trọng khôn ngoan, thay vì giúp người, ta vô tình hại
người, hại mình và điều ta làm trở nên vô nghĩa khi chọc cho người
giận, còn ta thì không thể nào vui nổi. Do đó, thận trọng khôn ngoan,
chín chắn trước khi hành động là điều kiện để có thể thực hành kỹ
năng thương yêu và giúp người vậy.
13. Nhã nhặn, khiêm cung
Người khiếm nhã, không
lịch sự trong giao tiếp khiến cho người khác rất ngại gần. Người thô
tháo trong lời nói và hành động là do tâm còn nhiều “tạp chất” của
các tâm lý tiêu cực. Do đó, chúng ta cần phải “lọc” kỹ lưỡng mới có
thể nhã nhặn trong lời nói, nhu nhuyến, linh hoạt và khiêm cung trong
hành xử. Khi tâm còn nhiều tạp chất, các “tế bào” tình thương rộng
lớn không thể kết dính với nhau thành một khối, nên nó không có sức
mạnh nào cả để có thể lưu xuất trong con người chúng ta và vì thế
không thể nào chia sẻ với người khác được.
Tình thương yêu rộng
lớn không giới hạn, không phân biệt này chỉ có thể “sống” trong môi
trường trong lành và tĩnh lặng của tâm thức mà thôi. Do vậy, khi tâm
được lọc và lặng yên nhờ vào sự chánh niệm, những hành vi cử chỉ
như nhã nhặn, khiêm cung liền có mặt và đóng vai trò quan trọng trong
giao tiếp. Con người sẽ cảm thấy gần gũi nhau hơn, dễ dàng mở lòng
và mở lời hơn khi đến với người có cách hành xử nhã nhặn, khiêm
cung dễ thương như vậy. Khi năng lượng tình yêu thương không bị hao mòn
bởi đường đi gập ghềnh của lời nói thô ráp, xù xì, cách cư xử ngông
nghênh, hống hách thì nó có sức mạnh lớn, đủ cảm hóa người khác.
Nhờ đó, chúng ta có thể đạt được mục đích vừa nuôi dưỡng lòng từ
của mình, vừa giúp người một cách thực tế nhất mà không chuốc lấy
sự rắc rối, khó khăn nào.
14. Không nịnh bợ kết thân vì lợi dưỡng
Đây là cách sống chân
chánh, hiển nhiên nếu chúng ta có những phẩm chất đạo đức đã nêu ra ở trên.
Một khi dễ dàng chấp nhận những gì mình có, hài lòng với nhu cầu
cuộc sống đạm bạc, đơn giản, không tích chứa tài sản của tiền, không
đắm vào các khoái lạc giác quan mà tìm cầu các món ăn vật uống,
sống một đời nhẹ nhàng như chim sải cánh giữa không trung thì không
có lý do gì để nịnh họt, bợ đỡ ai một cách ti tiện cả. Bợ đỡ,
lấy lòng, kết thân với người với tâm lợi dụng đều là những nhánh
nhóc của cùng một cái cây mọc trên gốc tham. Vì tham lợi dưỡng, thích
danh hão mà ăn mày lời khen của người khác để rồi dễ dàng trở thành
nạn nhân hoặc biến người khác trở thành nạn nhân khi không dám đối
diện chấp nhận sự thật. Tự mình tô trét một bộ mặt hoàn hảo để
lấy lòng người, hầu thỏa mãn nhu cầu không chính đáng và không cao
thượng của mình. Che đậy bản chất xấu ác bằng những hành vi nịnh
bợ, xum xuê, ton hót chẳng khác nào kim loại sét gỉ nhúng mạ một lớp
vàng, không thể nào tồn tại lâu dài được.
Tình thương yêu rộng
lớn không thể dung chứa trong một con người đầy dính mắc vị kỷ như vậy,
vì một khi tâm dính mắc, nó có một lực ma sát lớn trì kéo làm cho
tình thương yêu ấy giảm đi năng lượng đáng kể. Nịnh hót và bợ đỡ là
tâm không ngay thẳng, trong khi đó, tình thương yêu cao thượng chỉ có
thể đi thẳng, từ con tim nối liền con tim, chứ qua đường zích zắc chữ
chi thì nó không thể phát huy tác dụng. Do vậy, để có thể bảo toàn
và nuôi dưỡng năng lượng tâm từ, cái “bình” chứa nó là tâm thức phải
sạch sẽ, không có góc cạnh và đường lưu xuất là đường thẳng của sự
chân thật, của tâm thuần khiết, trong sáng. Tình thương yêu, nếu có,
khi qua các thủ thuật tiểu xảo đầy toan tính, thì trở thành cái na-ná-tình-thương;
gần-giống-tình-thương chứ không phải là tình thương đích thực và
chẳng thể đem lại lợi ích gì cho người nhận nó.
15. Không tạo lỗi lầm để người có trí chê cười
Người có trí là
người sáng suốt và có đời sống đạo đức gương mẫu, giàu tâm từ và
rất chính xác trong đánh giá, nhận định vấn đề. Người trí hiểu được đâu
là đúng, đâu là sai theo chân lý mà không theo cảm tính riêng. Nói
cách khác, người có trí là người biết đặt cảm tính cá nhân đằng
sau chân lý và lợi ích của mọi người. Do đó, ý kiến của người có
trí đáng được trân trọng, có thể xem là mực thước để đánh giá hành
động thiện, ác của chúng ta.
Để tránh những lỗi
lầm, chúng ta cần chánh niệm trong mỗi ý tưởng, lời nói và việc
làm, không nên xem thường những lỗi lầm nhỏ mà cho là không quan
trọng. Tất cả những cái lớn đều được kết thành từ những cái nhỏ,
lỗi lầm cũng như vậy. Trong cuộc sống, thật không sai nếu xem vai trò
của chánh niệm như một người bạn thân tốt bụng, một người vệ sĩ
trung thành, một người hướng dẫn du lịch tài giỏi giúp chúng ta
tránh lỗi lầm và định hướng tốt trong cuộc sống. Lấy chuẩn là cuộc sống
gương mẫu của những người có có trí để soi mình và luôn ý thức
trong từng chi tiết nhỏ nhất là cách tránh lỗi lầm hiệu quả nhất. Không
lỗi lầm thì mới có được tâm thanh thản, an tịnh để từ đó, tình
thương yêu rộng lớn có thể lưu xuất và trải rộng đến mọi người.
Tóm lại, những tính cách tốt đẹp vừa nêu là điều kiện cần thiết để
thực hành tâm từ trong đạo Phật. Gọi những thuộc tính tâm lý tích
cực này là “điều kiện”, đơn giản vì thiếu chúng tâm từ không có cơ
hội để thực hiện, hoặc nếu có, thì cũng không đưa đến kết quả mỹ
mãn. Để thành tựu được những tính cách trên, chúng ta cần phải có
sự chú tâm, chánh niệm thường xuyên, giữ tâm định tĩnh. Chánh niệm và định tĩnh không chỉ
giúp thành tựu các điều kiện trên,mà còn là những yếu tố hỗ trợ không
thể thiếu để kỹ năng thương yêu cao thượng được thực hành và đem lại
kết quả tốt đẹp cho người.
Khi đầy đủ các phẩm
hạnh cao quý này rồi, chúng ta dấn thân vào cuộc sống, tích cực “làm
gì đó” để chia sẻ, làm nhẹ đi gánh nặng khổ đau mà nhiều người đang
chịu đựng. Thực hành tâm từ là thể hiện tâm thương yêu qua hành động
thương yêu và lời nói thương yêu, chứ không phải ngồi lim dim trên bồ
đoàn khởi tâm TƯỞNG “cầu mong mọi người trong thành phố này thân không
tật bệnh, tâm không phiền não, tránh mọi rủi ro, tai nạn, được an vui
hạnh phúc”. Cầu mong như vậy chưa đủ, và chỉ dừng lại ở cầu mong là
đi ngược lại tinh thần Phật dạy. Khởi tâm từ trong lúc ngồi thiền là
cần thiết để làm động lực, xác định xu hướng hành động, nuôi dưỡng
tâm thiện lành để chế xuất, lưu xuất nguồn thương yêu qua hành động
và lời nói đem lại niềm an vui hạnh phúc cho người. Đây mới là trọn
vẹn thực hành tâm từ vậy.