Nhân ngày vía Quan Âm...
(Bản đã có bổ sung)
Cầu nguyện, mong ước những
điều tốt đẹp nhất đến với mình và người thân là tâm lý chung của tất cả mọi người
trong các nền văn hóa khác nhau. Trong văn hóa dân gian Việt Nam, tinh thần đó hòa
quyện với tín ngưỡng Phật giáo vốn trở thành mạch sống của dân tộc đã làm thành
một tín ngưỡng Quan Thế Âm (hay Quán Thế Âm). Tín ngưỡng Quan Thế Âm gần gũi,
quen thuộc trong nếp sống của người dân Việt và thấm nhuần trong lòng mọi người
qua nhiều thế hệ. Nói đến Bồ-tát Quan Thế Âm, ai trong chúng ta cũng liên tưởng
đến một vị Bồ-tát quán sát cuộc đời, xem xét thế sự, lắng nghe tiếng khổ của
tha nhân, nhìn các pháp đúng bản chất như chúng vốn là, để tùy duyên cứu độ. Do
đó, hầu hết chúng ta tin rằng, trong cảnh khổ, nếu nghĩ đến, cầu nguyện, hy vọng
và hết lòng tin tưởng Bồ-tát Quan Thế Âm, Ngài sẽ hiện thân cứu giúp chúng ta
vượt qua cảnh khổ. Cách nghĩ, cách làm ấy đã trở thành một nét văn hóa đặc
trưng của người Việt, cũng như nhiều dân tộc Châu Á cùng chia sẻ chung nền văn
minh lúa nước. Thế nhưng, về phương diện hành trì, văn hóa Quan Thế Âm không chỉ
có cầu nguyện, kêu cứu mà còn là một pháp tu dành cho tất cả. Trong phạm vi bài
này, người viết xin bàn về khái niệm Quan Thế Âm và pháp tu Quan Thế Âm theo
quan điểm của đức Tổ sư Minh Đăng Quang xuyên qua tiểu luận “Quan Thế Âm” trong
bộ Chơn Lý.
1. Tín
ngưỡng Quan Thế Âm trong dân gian
Cuộc sống vận hành theo
những quy luật khách quan, không hề phụ thuộc vào tình cảm thích ghét của con
người. Tuy nhiên, con người sống thiên trọng về cảm tính chủ quan, thuận theo
những cung bậc tình cảm của mình hơn là chấp nhận và tập sống theo sự vận hành
của những quy luật khách quan. Chính vì lẽ đó, con người thường chuốc lấy cái
khổ khi sự vận hành của quy luật khách quan không thuận theo chủ ý của mình.
Đây là tâm lý thường tình, phổ quát ở tất cả con người chưa giác ngộ và cũng vì
lý do này, người ta nói “đời là khổ”. Là người, ai cũng mong vươn đến mục đích
tối hậu là hạnh phúc, nên khi gặp khổ đau, một cách bản năng, ai trong chúng ta
cũng mong cầu được bớt khổ, thêm vui, bình an trong cuộc sống.
Nếu có một vị Bồ-tát, với
tâm từ bi vô hạn, lắng nghe tiếng kêu than liền ứng hiện, dùng trí tuệ soi thấu,
tìm phương cách cứu giúp chúng ta qua khỏi khổ nạn thì hầu như hình ảnh vị Bồ-tát
ấy thường trực trong tâm trí mỗi người chúng ta, vì nỗi khổ niềm đau ngự trị triền
miên nơi con người chưa hết tham, sân, si và nhu cầu hết khổ được vui lại càng
bức bách hơn và liên tục không ngừng dứt. Vị Bồ-tát cứu tinh ấy là Bồ-tát Quan
Thế Âm. Hình ảnh Ngài trở nên vô cùng gần gũi và rất đỗi thân quen với đời sống
văn hóa tinh thần của chúng ta. Chẳng có gì lạ khi người Phật tử cũng như người
không theo đạo Phật thường niệm danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm để mong sự an
lành, tai qua nạn khỏi.
Do vậy, với người Việt
Nam, truyền thống tín ngưỡng Quan Thế Âm xuất hiện từ rất sớm. Hình ảnh của một
vị Bồ-tát từ bi cứu khổ độ sanh đã ăn sâu trong tiềm thức con người. Thường
xuyên nghĩ nhớ và trì niệm danh hiệu Quan Thế Âm cũng đồng nghĩa với sự mong ước
bình yên, nỗ lực hướng đến trạng thái bình yên và đây là nhu cầu chính đáng của
tất cả mọi người. Cầu nguyện, mong xin sự gia hộ, cứu khổ cứu nạn từ Bồ-tát
Quan Thế Âm là sự hòa quyện giữa tín ngưỡng dân gian và giáo lý đậm chất từ bi
của đạo Phật, trong đó, yếu tố tín ngưỡng cầu xin được che chở, hộ trì có phần
vượt trội. Trong niềm tin này, chúng ta thường thấy một hiện tượng phổ biến là
rất nhiều Phật tử có xu hướng thờ tượng Bồ-tát Quan Thế Âm hơn bất cứ hình tượng
Phật, Bồ-tát nào khác và quen gọi Ngài một cách cung kính là “Phật bà Quan Âm”.
Thế nhưng, vấn đề đặt ra
là liệu những mong muốn của chúng ta, những nguyện cầu của chúng ta có được đáp
ứng, thành tựu hay không? Không ai dám chắc được điều này, vì không đủ cơ sở. Dù
vậy, chúng ta vẫn cứ trì niệm danh hiệu Quan Thế Âm kèm theo bao lời cầu nguyện,
vì nó đáp ứng được nhu cầu tâm lý của người thực hiện. Chưa biết kết quả thế
nào, nhưng theo thói quen, trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm, chúng ta có cảm
giác bình an. Đây là việc chúng ta từng làm
trong quá khứ, đang làm trong hiện tại và sẽ tiếp tục trì niệm danh hiệu Bồ-tát,
cầu nguyện cứu khổ cứu nạn trong tương lai. Chúng ta cầu nguyện vì cảm thấy bất
an, khi cảm thấy bất lực trước cuộc sống nhiều rủi ro, bất trắc và không lường
được việc gì sắp xảy ra với mình.. Trong bất an, tâm lý mất cân bằng, chao đảo,
trống vắng, hoang vu nên chúng ta cần một điểm tựa. Lúc này, cầu nguyện như một
cái cọc tâm vớ được để tự trấn an mình.
Một sự thật không thể phủ
nhận rằng, do tâm tham lam và si mê chi phối, sự ham muốn của con người không
có điểm dừng. Ham muốn càng nhiều, sự lỗi nhịp, tách rời giữa những gì ta muốn
và những gì đang thật sự diễn ra theo quy luật khách quan càng lớn. Từ đó, sự bất
an càng nhiều hơn và hệ quả tất yếu là cầu nguyện thường xuyên hơn, dù không ai
đảm bảo được hiệu quả của việc cầu nguyện. Dưới lăng kính Phật giáo, sẽ hiệu quả
chắc chắn hơn khi chúng ta tiếp cận hình ảnh và những đức tính cao quý của Bồ-tát
Quan Thế Âm qua phương diện tu tập để trở thành một sứ giả của Ngài, năng động
trong việc hành trì để thành tựu trí tuệ và từ bi cho tự thân và giúp người
khác trên con đường tu tập để thành tựu như mình. Vượt lên trên tín ngưỡng bình
thường, người Phật tử chân chánh cần tiếp cận hình ảnh của Bồ-tát Quan Thế Âm
xuyên qua hạnh nguyện của Ngài thiết lập pháp tu cho chính bản thân mình.
2. Trì
niệm Quan Thế Âm là một pháp tu
Theo Tổ sư Minh Đăng Quang, Quan Thế Âm là hiện thân của từ bi và trí tuệ, là
đặc tính của tất cả chư vị Bồ-tát, chứ không có một vị Bồ-tát cụ thể nào có
danh hiệu Quan Thế Âm cả. Như vậy, tất cả bậc Bồ-tát đều là Quan Thế Âm, đều là
hiện thân của từ bi và trí tuệ. Ngài viết “từ
bi trí huệ là Quan Thế Âm: Quan Thế Âm là Bồ-tát, Bồ-tát là từ bi trí huệ, hay
cũng gọi là có Quan Thế Âm mới từ bi trí huệ, có từ bi trí huệ mới có Quan Thế Âm”
(Chơn
Lý, tr. 593). Như vậy, người ta cầu nguyện, mong ước nhận được sự trợ
giúp, cứu khổ cứu nạn từ Bồ-tát Quan Thế Âm là cầu mong nguồn từ bi và trí tuệ,
để bản thân mình được giao thoa, tưới tẩm và thấm nhuần hai đặc tính cao quý này.
Thật là biện chứng và đầy tính nhân văn khi Đức Tổ sư Minh Đăng Quang dạy rằng
“Người ta cầu cứu với Đức Quan Thế Âm
phương Tây nghĩa là: người ta cầu cứu với các nhà đạo đức từ bi, thường quán
xét sự thế, tiếng khổ tối tăm, đem đạo đức đến giảng dạy giáo hóa cho họ, để
cho họ được giác ngộ cảm hóa, mà dứt bỏ tiêu tan chứng bịnh tham sân si tam độc,
trong thời kỳ vật chất vướng lây truyền nhiễm tâm người” (Chơn Lý, tr. 593-594).
Như vậy, cầu xin, mong ước ở đây thể hiện phương diện tích cực, chủ động của chủ
thể cầu nguyện. Đó là quy trình hướng tâm đến, khuynh hướng tâm lý thôi thúc chủ
thể hướng về từ bi và trí tuệ như là mục đích sống, như là nguồn cảm hứng nuôi
dưỡng mọi hành động thiện lành của mình vậy. Cầu ở đây là cầu học pháp, cầu được
cảm hóa để lấy đó làm chất liệu trang bị cho mình kỹ năng chuyển hóa khổ đau để
rồi tự cứu mình hết khổ.
Ở trong mọi pháp tu, vai trò chủ đạo và tích cực của người thực hành được
nhấn mạnh để mỗi người ý thức được trách nhiệm bản thân đối với đời sống tâm
linh của mình. Điều này đi ngược lại với niềm tin mù quáng Bồ-tát Quan Thế Âm
làm chức năng của một vị thần vốn quá phổ biến trong cuộc sống văn hóa xã hội của
người Việt chúng ta. Do đó, phát huy nội lực của tự thân, khơi nguồn trí tuệ và
từ bi đúng cách là trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm đúng pháp vậy.
3. Pháp tu Quan Thế Âm là ứng dụng tự kỷ ám
thị tích cực
Tu niệm pháp Quan Thế Âm là ứng dụng
tự kỷ ám thị tích cực, đề cao vai trò động của người cầu nguyện. Hoàn toàn phù
hợp với quan điểm đức Phật là một bậc giác ngộ, thì ở đây, Tổ sư Minh Đăng
Quang quan niệm rằng bồ-tát là một bậc viên mãn trí tuệ và từ bi, mang hạnh
nguyện dấn thân độ đời, và ai cũng có tiềm năng này cần được trưởng dưỡng. Là kết
tinh của những gì vẹn toàn và ưu việt nhất của một con người toàn thiện, Bồ-tát
Quan Thế Âm không kẹt vào trong hình tướng nam hay nữ. Do vậy, ở một số nước, Bồ-tát
Quan Thế Âm mà một người nam, trong khi đó, ở một số nước khác, trong đó có Việt
Nam, Bồ-tát Quan Thế Âm là hiện thân của một người mẹ hiền với lòng thương yêu
chúng sanh như con đỏ. Trên tinh thần này, đức Tổ sư Minh Đăng Quang lý giải “những
bậc đại hùng đại lực đại từ bi ấy,
tức là sự mạnh mẽ như đàn ông nên họ gọi là ông Quan Thế Âm Đại Sĩ,
chớ thật ra danh từ pháp lý Quan Thế Âm là không phải nam hay nữ cả, vì
ai cũng có được in nhau hết” (Chơn Lý, tr. 595-596).
Đừng nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể là
đối tượng đón nhận lòng thương yêu, cứu giúp của Bồ-tát Quan Thế Âm và Ngài sẽ
“ban” cho chúng ta một chút trí tuệ! Đạo Phật không có chỗ cho thái độ sống thụ
động như vậy. Mỗi người là một kiến trúc sư của đời mình trên tinh thần hạnh
phúc do ta tạo, khổ đau tự mình làm. Để mọi người tự tin vào sức mình, Tổ sư
Minh Đăng Quang viết tiếp: “ai ai, các Phật, Thánh nào cũng có mang danh từ pháp lý Quan Thế Âm cả,
chúng ta kẻ nào có tấm lòng như thế cũng là Quan Thế Âm được” (Chơn
Lý, tr. 594). Trên cơ sở đó, cầu nguyện và trì niệm danh hiệu Quan Thế
Âm như là một phương pháp tự kỷ ám thị để khắc sâu hai đặc tính cần học hỏi, cần
khơi nguồn và nuôi lớn trong tâm mỗi người, đó là từ bi và trí tuệ. Tự ám thị
là thuật ngữ dùng để chỉ cho tất
cả những hình thức tự kích thích và khuyến khích bản thân qua các giác quan, là quá trình tự tâm
niệm, tự khích lệ. Tự kỷ
ám thị không chỉ tác động đến phần ý thức mà còn tác động mạnh đến tiềm thức của
não bộ. Cầu nguyện và trì niệm danh hiệu Quan Thế Âm là cách “cấy” vào trong
não bộ một thông điệp: hãy luôn dành trọn tâm thành để nghĩ về, hướng đến và
trang bị cho mình hai đặc tính từ bi và trí tuệ vậy.
Napoleon Hill,
tác giả cuốn sách nổi tiếng “Think & Grow Rich” rất đề cao vai trò của tự kỷ
ám thị, coi đây là một trong những nhân tố dẫn đến thành công. Ở chương III
trong cuốn sách này, Napoleon Hill viết: “Bạn
có thể cấy vào trong tiềm thức của mình bất cứ kế hoạch, ý tưởng hay mục đích
nào mà bạn khát khao mong muốn biến thành các giá trị vật chất hay tiền bạc
tương đương.” Và “Hãy nhớ rằng, tiềm
thức của chúng ta hoạt động bất kể mình có cố gắng tác động đến nó hay không”.
Vậy, cầu nguyện, nghĩ về Bồ-tát Quan Thế Âm là tạo ra một dòng năng lượng tích
cực trong tâm, hướng về, nghĩ về, tha thiết có được từ bi và trí tuệ. Đây là
cách chúng ta sử dụng ý thức để khắc sâu vào tiềm thức những niềm tin và tư duy
tích cực để rồi đi đến cụ thể hóa bằng những hành động tích cực. Thật ra, rất
nhiều thứ trong thế giới, ngoài ta và trong ta đang vận hành có tính quy luật
và chúng ta không thể nào can thiệp được guồng máy ấy, ví dụ như sự biến chuyển,
thay đổi của các pháp hữu vi. Tuy nhiên, chúng ta có thể can thiệp, thậm chí
làm chủ một số cơ chế vận hành diễn ra trong ta: sự vận hành của tâm thức. Napoleon
Hill có lời nhắc nhở chí lý rằng “thiên
nhiên ban tặng cho con người quyền kiểm soát tuyệt đối một thứ duy nhất, đó là
tư tưởng”. Nếu biết làm người chủ khôn ngoan, sáng suốt của tâm trí mình, với
sự nỗ lự đúng cách, hạnh phúc của đời mình nằm trong lòng bàn tay.
Tự ám thị có chủ đích theo hướng tích
cực là cách tạo niềm tin về khả năng sẽ đạt được ước mơ của mình, có tác dụng
thúc đẩy con người hành động mạnh mẽ, kiên trì vượt qua mọi khó khăn thách thức
để đạt mục đích mà mình hướng đến. Theo truyền thống Phật giáo, thắp nến cầu
nguyện hòa bình, thả bồ câu cầu nguyện hòa bình, thả hoa đăng là những cách tự
ám thị tích cực với khao khát những tâm niệm thiện lành, tích cực được “cấy”
vào trong tâm khảm mọi người, tương tự như cầu nguyện Bồ-tát Quan Thế Âm vậy.
4. Pháp tu Quan Thế Âm là thanh tịnh nội tâm,
dấn thân cứu đời
Lấy từ bi và trí tuệ làm nền tảng để ứng dụng vào đời sống tu tập của bản
thân và tùy duyên hóa độ chúng sanh là tâm nguyện của Bồ-tát Quan Thế Âm. Tổ sư
Minh Đăng Quang diễn tả phương diện tự độ của Bồ-tát Quan Âm rằng “Bồ-tát tay trái cầm tịnh bình chứa nước cam
lộ, là các bậc thầy ấy giữ gìn tâm thanh tịnh chơn như đạo đức” (Chơn Lý, tr. 594). Kinh Lăng Nghiêm,
quyển thứ sáu, cũng diễn tả ý tưởng tương tự rằng “Phương pháp tu hành của vị
Bồ-tát này là không dùng nhĩ căn để nghe những âm thanh bên ngoài mà là hướng
vào bên trong nghe công năng của tánh nghe ở bên trong nhĩ căn… vị Bồ-tát này
dùng nhĩ căn để quán sát, phân tích tính chất giả tạm, không thật của âm thanh
trong thế gian mà hoàn toàn không bị tác động. Nhờ thế Bồ-tát đi vào trạng thái
như như bất động của đại giải thoát”. Như vậy, tu hạnh
Quan Thế Âm về phương diện tự thân là giữ tâm như như bất động. Thật ra, có giữ
tâm bất động trước những biến động của cuộc đời mới có đủ nội lực quán chiếu, lắng
nghe và cứu khổ tha nhân. Đây chính là pháp tu của Bồ-tát Quan Thế Âm trong
kinh Lăng Nghiêm qua pháp môn nhĩ căn viên thông, tức là chuyển hóa nhĩ căn thể
nhập vào trạng thái thanh tịnh, sáng suốt của bản giác diệu tâm. Nhờ đó, từ nguồn
tâm sáng soi này, Bồ-tát Quan Thế Âm mới có khả năng nghe thấu tiếng khổ trong
ba cõi để dụng tâm cứu độ chúng sanh.
Song song với giải thoát tự thân, với chất liệu từ bi và trí tuệ, Bồ-tát Quan
Thế Âm còn dấn thân vào đời với tâm nguyện dõng mãnh, không hề mệt mỏi trong hạnh
nguyện cứu khổ tha nhân. Tổ sư Minh Đăng Quang viết: “Tay mặt cầm nhành dương nhúng nước rưới khắp nơi, là dùng phương tiện
giáo lý hoằng dương, đem pháp bảo rải khắp nơi cho mọi người, giác ngộ thức tỉnh,
nhờ thấy rõ mục đích, nên họ quay về đường sống chung tu học, không còn tham
sân si giết hại lẫn nhau nữa, cũng không còn hơn thua danh lợi thế quyền”(Chơn
Lý, tr. 595). Câu văn mộc mạc, chân chất nhưng đủ diễn đạt ý tưởng căn bản
trong pháp tu của người học Phật: từ bỏ tham, sân, si, không bon chen danh lợi
thế quyền. Để có thể giúp người chuyển hóa nội tâm, Bồ-tát phải dấn thân vào đời,
với chất liệu trí tuệ và từ bi làm hành trang, dùng vô số phương tiện để đánh
thức tâm người lạc lối, hướng họ về nẻo thiện lành.
Với cách này, người được giúp là người phải tự thân vận động, tự làm phần
việc của mình, với sự hỗ trợ của phương pháp hóa giải khổ đau, chứ không phải
thụ động như chiếc bình mở nắp đợi sẵn, không làm gì mà đau khổ tự bay đi, hạnh
phúc tự tìm đến. Như vậy, trang nghiêm tự thân và dấn thân vì lợi ích cộng đồng
không mệt mỏi là hạnh nguyện của những người tu hạnh Quan Thế Âm.
5. Pháp tu Quan Thế Âm thích hợp cho tất cả
Mỗi vị Bồ-tát có một hạnh nguyện độ sanh riêng. Ngài Địa Tạng thì phát nguyện
cứu giúp chúng sanh bị đang trầm luân trong chốn địa ngục khổ đau, Bồ-tát Quan
Thế Âm thì lắng nghe tiếng khổ của chúng sanh khắp ba cõi mà dùng vô số phương
tiện cứu giúp. Vì lẽ đó, tất cả chúng ta và vô số chúng sanh khắp trong ba cõi
đều là đối tượng tế độ và giáo hóa của Bồ-tát Quan Thế Âm. Rõ ràng Ngài là vị Bồ-tát
được mọi người kính trọng, tôn thờ và nguyện theo “thọ giáo”. Như
vậy, pháp tu của Bồ-tát Quan Thế Âm là một pháp tu thích hợp cho số đông, cả
hàng xuất gia và tại gia. Tổ sư Minh Đăng Quang viết: “Nhờ các Ngài thuyết pháp mà họ được hết khổ, và được thấy rõ nẻo xuất gia,
xa lìa khổ nạn; nên họ thường niệm tưởng đến danh hiệu Quan Thế Âm luôn. Kẻ nào
xuất gia chưa được, thì họ nhắc nhở câu nói như vầy: Kính lạy Đại từ Đại bi cứu
khổ linh cảm Quan Thế Âm Bồ-tát. Họ nhắc như thế để cho quên sự ghê sợ nạn khổ
của đời, và đừng xao lãng sự phát tâm cầu đạo giải thoát của họ” (Chơn Lý, tr. 595).
Ở Việt Nam, sự hành trì pháp tu Quan Thế Âm được chư
Tăng Ni ở phần lớn các chùa áp dụng. Trong thời khóa tụng kinh hằng ngày của
người tu sĩ cũng như cư sĩ đều vận dụng pháp tu Quan Thế Âm. Mỗi thời kinh đều
tụng “chú Đại bi” và “Bát nhã tâm kinh” như một lời khích lệ và nuôi dưỡng sự
hành trì, luôn nỗ lực để đạt đến thân tâm thanh tịnh và trí tuệ siêu tuyệt như
Bồ-tát Quan Thế Âm. An trú trong chánh niệm, giữ nhĩ căn thanh tịnh và viên
thông vô ngại để có khả năng nghe tiếng khổ của chúng sanh và thấy đúng như thật
là đặc tính và là hạnh tu của Bồ-tát Quan Thế Âm trong kinh Lăng Nghiêm. Gần
gũi và phổ biến nhất, sự vận dụng đa dạng mà khéo léo tinh thần từ bi và trí tuệ
của mỗi người con Phật trong cộng đồng xã hội với nhiều ứng thân của Bồ-tát Quan
Thế Âm là pháp tu được trình bày trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa. Hầu hết
Phật tử Việt Nam tiếp cận pháp tu Quan Thế Âm qua nội dung kinh Pháp Hoa và nỗ
lực vận dụng hành trì khi dấn thân vào cộng đồng xã hội.
Thờ
cúng Bồ-tát Quan Thế Âm đúng nghĩa là tu pháp tu của Ngài, dùng pháp quán chiếu
để kích hoạt một sự khởi tâm, động cơ thôi thúc tự trong tâm mình, tiếp một nguồn
năng lượng cho niềm tin và động lực, tạo thành một quán tính tâm lý, suy nghĩ
và hành động theo hạnh từ bi và trí tuệ. Trị niệm danh hiệu Quan Thế Âm là khơi
dậy trong tâm thức một quá trình trang bị cho mình hai đức tính quý báu ấy cho một
người tu chân chánh, có giá trị như đôi cánh của một con chim, để rồi động lực
tâm thức ấy luôn nuôi dưỡng hai đức tính này, thôi thúc chúng ta hành động có từ
bi, có trí tuệ trong cuộc sống. Một cộng đồng có nhiều người biết tu hạnh Quan
Thế Âm theo cách này thì xã hội sẽ bình an, thịnh vượng.
6. Pháp tu Quan Thế Âm là thực hành lời dạy
của chư Phật
Như trên đã trình bày, ở Việt Nam, tín ngưỡng
Quan Thế Âm phát triển mạnh mẽ trong đời sống thường nhật của quần chúng nhân
dân cũng như trong hàng Phật tử, thờ tượng Bồ-tát Quan Thế Âm nhiều hơn thờ tượng
Phật Thích-ca, vị Phật lịch sử đã để lại cho đời cả một kho tàng giáo lý pháp bảo
cho chúng sanh nương theo tu học và giải thoát khỏi khổ đau. Do đó, cần giải
thích, hướng dẫn cho Phật tử cư sĩ hiểu được cách thờ phượng đúng nghĩa là hành
trì theo pháp tu của vị Bồ-tát ấy, chứ không phải coi đó là vị thần sẵn sàng
đáp ứng những gì ta cầu xin van vái.
Hình ảnh Bồ-tát Quan Thế
Âm đã được giới thiệu trong rất nhiều kinh như: Tâm kinh, kinh Lăng Nghiêm, kinh
Đại Nhật, kinh Bi Hoa và kinh Pháp Hoa theo tư tưởng Phật giáo Phát triển không
ngoài mục đích động viên, khuyến tấn người học Phật theo hạnh Ngài nuôi dưỡng từ
bi và trí tuệ. Xây dựng hình ảnh Bồ-tát Quan Thế Âm là một cách truyền thông điệp
từ bi và trí tuệ, hai đặc tính cốt lõi nhất làm nền tảng cho toàn bộ nền triết
lý của đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Về phương diện hành trì, pháp tu của Bồ-tát Quan
Thế Âm là pháp tu truyền thống trong đạo Phật từ muôn đời! Đức Tổ sư Minh Đăng
Quang dạy “danh từ Quan Thế Âm tức là pháp cứu khổ cứu nạn
rồi, ai niệm tưởng quán xét trì giữ thật hành thì ắt sẽ đặng giải thoát
cứu khổ nạn ngay, y theo đó thì sẽ cứu độ được mình và người. Chư Phật
khi xưa thảy đều dạy y như vậy” (Chơn Lý, tr. 602). Rõ ràng từ bi
và trí tuệ là sợi chỉ thắm xuyên suốt những lời dạy của chư Phật ba đời, cụ thể
và gần gũi nhất là đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hai đặc tính này là dấu hiệu đặc
trưng, là tem bảo chứng để nhận biết giáo lý của đức Phật. Chúng ta có thể tìm
thấy từ bi và trí tuệ trong tất cả những bài pháp sống động, qua những hình tượng
văn học phong phú và đa dạng trong kho tàng kinh điển Phật giáo.
Hạnh nguyện bồ-tát là nỗ
lực để có những thành tựu trong tu tập cho cá nhân và tìm mọi cách để giúp người
khác cùng thành tựu như mình là lý tưởng sống, là con đường tu tập của người
con Phật. Hiểu được điều này, chúng ta thấy pháp tu Quan Thế Âm có mặt trong
toàn bộ kho tàng giáo lý của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni. Đó là pháp tu lợi
mình, lợi người, chủ trương giữ tâm thanh tịnh, phát triển tuệ giác và dấn thân
cứu giúp tha nhân làm sự nghiệp của đời mình.
Tóm lại, nếu thờ tượng cốt, trì niệm danh hiệu và cầu
nguyện Bồ-tát Quan Thế Âm theo cách niệm và cầu nguyện suông, thì đó không phải
là cách làm của người thực hành giáo lý đạo Phật. Bởi lẽ, nếu cầu gì được nấy,
ước sao có vậy thì rõ ràng mâu thuẫn với giáo lý nhân quả của đạo Phật. Sự vô
ích của cầu khẩn van xin được đức Phật nhấn mạnh trong một bài kinh thuộc Tương Ưng Bộ kinh (Tương Ưng bộ kinh, tập V, chương
XI, phẩm III, kinh số 21-1: Mahanama) với hình ảnh rất ấn tượng là
không thể nhờ cầu nguyện mà đá có thể nổi trên mặt nước và bơ dầu có thể chìm.
Cung kính và tôn thờ Bồ-tát Quan Thế Âm không có nghĩa là chúng ta coi Ngài
như một vị thần để cầu xin, mà là học theo hạnh Ngài. Tu và học theo hạnh nguyện
của Bồ-tát Quan Thế Âm là vận dụng lời đức Phật dạy vào cuộc sống một cách có
trí tuệ và linh hoạt, cùng nhau bắt nhịp cầu kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống,
luôn đồng hành và giúp nhau sống trong mối tương quan cộng sinh. Học hạnh Bồ-tát
Quan Thế Âm là học cách thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung
và độ lượng, cảm thông và tha thứ, sẻ chia và giúp đỡ nhau cho đời thêm nhiều hạnh
phúc, vơi bớt khổ đau. Chuyên tâm cầu nguyện và trì niệm danh hiệu Quan Thế Âm
đúng cách là thể hiện các đặc tính trên một cách thuần thục, uyển chuyển và tự
nhiên như chính hơi thở của mình.
Tài liệu
tham khảo
1.
HT. Thích Minh Châu
(dịch), Tương Ưng Bộ kinh, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1997.
2.
Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn Lý, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2016.
3.
Hill, Napoleon. Think
and Grow Rich : The 21st-Century Edition, Revised and Updated. High
Roads Media, 2004.