Thursday, September 17, 2015

NGHIỆP CẦN ĐƯỢC HIỂU NHƯ THẾ NÀO?

Trên trang blog này, đã hơn một lần tôi bàn về vấn đề nghiệp và kết quả của nghiệp (cụ thể là bài viết bài dịch đã post trước đây) như một cách chia sẻ, gợi ý một cách nhìn khác không theo rãnh mòn, trong số đông người học Phật, tu Phật, biết đạo Phật và ít nhiều chịu ảnh hưởng từ đạo Phật, về giáo lý này. Thế nhưng, mỗi lần thấy và nghe người khác nói về nghiệp không đúng theo cách hiểu truyền thống của Phật giáo, không phù hợp với lời đức Phật dạy được ghi lại trong kinh điển, tôi lại muốn viết tiếp và bài này được viết trong một duyên như thế. Tâm lý muốn an toàn vốn cố hữu ở con người nên chúng ta có khuynh hướng đi đường mòn, chấp nhận những quan điểm tồn tại lâu nay hơn là một cách hiểu khác đi và giáo lý về nghiệp không là ngoại lệ.
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau, phần nhiều do tác động của kinh nghiệm bản thân và chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này. Thế nhưng, hầu hết mọi người đều chấp nhận nghiệp như là một định nghiệp hơn là một năng lượng hành hoạt của tâm thức. Họ thường nói “tôi khổ là do nghiệp của tôi” như thể nghiệp quá khứ hoàn toàn thống trị đời sống hiện tại và cả tương lai của mình. Nếu vậy, đức Phật chẳng thể đóng góp được gì đối với việc chuyển hóa khổ đau của mỗi người. Sự thật, sự đóng góp của đức Phật và đạo Phật cho nhân gian này quá lớn lao, trong đó có sự đóng góp của học thuyết về nghiệp. Do vậy, ta cần nhìn lại để xác định đâu là ý nghĩa đích thực của giáo lý nghiệp theo lời Phật dạy.

Nghiệp thường được hiểu theo khái niệm “nông nghiệp”

Vốn chịu ảnh hưởng lâu đời về văn hóa nông nghiệp, những người tin vào nghiệp dễ dàng chấp nhận những gì ta đang là và đang có trong hiện tại HOÀN TOÀN phụ thuộc vào những gì ta đã gieo tạo trong quá khứ. Nếu chúng ta bị ai lừa dối gạt lường thì cứ nghĩ rằng trong quá khứ, mình đã gieo hạt giống xấu, mình đã lừa dối gạt lường người khác. Một điều rõ ràng là những gì ta gieo trong hiện tại, chắc chắn ta sẽ gặt trong tương lai. Thế nhưng, không chỉ đơn giản có vậy, luật nhân quả nghiệp báo không diễn ra trên không gian phẳng và những gì ta nhận lấy không đơn giản như kết quả của phép tính cộng từ một vụ mùa sau khi gieo giống một thời gian, như người ta thường nói:
Rằng ai muốn biết nhân xưa
Hãy xem hoàn cảnh bây giờ chịu đây
Muốn biết quả báo sau này
Xem điều tội phước ta nay đang làm.

Cách hiểu nghiệp theo tư duy “nông nghiệp” có gì không ổn?

Thứ  nhất, nếu nói ta gặt những gì đã gieo, dường như trái ngược với những gì ta chứng kiến và trải nghiệm trong cuộc sống. Ta hành động với tâm lành, ví dụ ta biếu vài đồng tiền lẻ để vào bát của một người đi xin và đó là tất cả những gì ta có trong lúc ấy với trọn tâm lành, người ấy quay lại mắng ta “nhìn người sáng sủa bảnh bao vậy mà sao keo thế, có mấy đồng tiền lẻ thôi à?” Ta thường xuyên chứng kiến những đồng nghiệp của mình không chu toàn công việc cơ quan, lợi dụng thời gian làm việc để gõ tin, tán gẫu bạn bè, năng lực làm việc kém, ấy thế mà khéo sống và biết thời biết thế một chút là nhanh chóng được thăng quan tiến chức. Một người tôi quen có mẹ mắc bệnh ung thư ở giai đoạn cuối, sự sống đang đếm bằng ngày, vừa gởi tin tâm sự với những dòng tin đầy tâm trạng não nề “cô ơi, mẹ con trước giờ ăn ở hiền lành, chân chất, không tham lam, không thủ đoạn, cũng hay giúp đỡ người và được nhiều người yêu thương, tại sao cuối đời lại phải chịu nhiều đau đớn trong nước mắt như vậy?” Bao chuyện “ngược đời” như thế cứ diễn ra trước mắt, người xấu ác thì giàu có sung sướng, trong khi đó, những gì tồi tệ nhất lại đến với người tốt khiến tâm ta dao động, chao đảo và bắt đầu nghi ngờ về nhân quả. Liệu có cái gọi là “ở hiền, gặp lành” trong đời này không?
Làm sao để giải thích sự “trái ngang” có vẻ như không theo một quy luật nào cả thế này, trong khi đó, những gì ta biết về nhân quả là một quy luật? Vấn đề là ở chỗ, nếu ta nhìn sự vận hành của luật nhân quả theo kiểu “nông nghiệp”, thì yếu tố thời gian mang tính quyết định từ khi gieo nhân đến lúc hái quả. Hạt giống xuống đất, sau một thời gian nhất định, ta thu hoạch vụ mùa. Ta cũng nghĩ rằng khi tạo tác một hành động thiện ác nào đó, sau một thời gian NHẤT ĐỊNH ta tự QUY ĐỊNH theo cảm tính của mình, ta mong có được kết quả. Nếu chưa thấy có kết quả, ta vội nghi ngờ có điều “không ổn” với luật nhân quả, tệ hơn nữa là kết nhận luật nhân quả không đúng hoặc không có mặt để chi phối hành động và kết quả hành động như đức Phật đã dạy.
Tất nhiên từ nhân đến quả cần có thời gian, nhưng đây chưa phải là yếu tố duy nhất, lại không phải là thời gian cố định, nhất định và tự ta quy định một cách tùy tiện mà được. Chúng ta tự hạn định “thời gian bảo hành” cho luật nhân quả là CHỈ Ở ĐỜI NÀY, nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Nhiều điều trong cuộc sống không thể giải thích và giải quyết được nếu chỉ căn cứ vào mỗi một yếu tố thời gian trong tiến trình vận hành của nhân quả hạn cuộc trong kiếp sống này. Ví dụ, tại một em bé sơ sinh qua đời? nếu chỉ khoanh vùng trong kiếp sống này, em làm gì nên tội? em chưa đủ thời gian để cơ thể học cách tiêu hóa những giọt sữa mẹ đầu đời nữa mà, em đã làm điều gì ác chứ?
Vậy những gì đức Phật thật sự nói về giáo lý nghiệp là gì?

Nghiệp là tác ý

Thay vì cứ chăm chăm nhìn nghiệp là kết quả của hành động tạo tác trong quá khứ, đức Phật chuyển hướng, mở ra cho chúng ta một lối nhìn mới vào giáo lý nghiệp. Ngài nhấn mạnh, nghiệp là tác ý. Hành động nào do tâm ý làm động cơ – ở mức độ ý thức cũng như ở tầng sâu hơn của tiềm thức và vô thức – đều tác thành nghiệp. Câu kinh có thể gọi là “tuyên ngôn” về giáo lý nghiệp được trích dẫn nhiều nhất là: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy” (Tăng chi bộ kinh, chương Năm, phẩm VI, kinh số 57: Sự kiên cần phải quán; Tăng chi bộ kinh, chương Năm, phẩm XVII, kinh số 161: Trừ khử hiềm hận). Khái niệm nghiệp được hiểu là hành động thiện ác và quả báo tương ứng vốn đã có trong truyền thống bà la môn từ lâu rồi, cái mới của đức Phật là chỉ ra tầm quan trọng của tâm ý với vai trò động cơ và động lực trong quá trình tạo nên hành động ấy, chứ không phải bản thân hành động. Nói cách khác, đức Phật đặt tầm quan trọng của người chỉ huy, lãnh đạo và điều động chứ không phải người thực hiện công việc.
Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng suy tư là nghiệp; sau khi suy tư, tạo nghiệp về thân, về lời, về ý. (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VI, kinh số 63). Trong ba loại thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp thì ý nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất (Trung bộ  kinh số 56: Kinh Ưu ba ly). Chính tầm quan trọng của tâm trong quá trình tạo nghiệp nên đức Phật dạy Rahula hãy luôn luôn phản tỉnh trước khi làm một nghiệp nào đó về thân, khẩu hay ý. Ngài nói “này Rahula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành khẩu nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp.[…] Hành động nào có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ, ta nên tránh” (Trung bộ kinh số 61: Kinh Giáo giới Rahula).
Việc gì cũng do tâm dẫn đầu, tâm điều khiển, tâm tạo. Nếu một người nào đó nói hay hành động với tâm ô nhiễm, khổ đau sẽ đi theo như bánh xe đi theo chân con vật kéo xe. (Pháp cú kệ số 1)
Việc gì cũng do tâm dẫn đầu, tâm điều khiển, tâm tạo. Nếu một người nào đó nói hay hành động với tâm thanh tịnh, hạnh phúc sẽ theo sau như bóng không rời hình.(Pháp cú kệ số 2)
Tác ý là nghiệp được đức Phật nhắc đi nhắc lại vô số lần trong các bài giảng của Ngài được ghi lại trong kinh điển, đủ biết đây là ý nghĩa nòng cốt nhất của giáo lý nghiệp trong hệ thống giáo lý của Ngài. Nếu ta hành động về thân, miệng và ý với chủ tâm càng bất thiện,  như tham, sân và si, chính bản thân mình càng chịu nhiều độc hại, khổ đau, bất kể những gì đến với mình từ bên ngoài. Nếu ta hành động với chủ tâm thiện, như từ bi và trí tuệ, tâm ta được mạnh mẽ, bao dung hơn, kiên nhẫn hơn và nhờ đó, ít bị tổn thương hơn, tâm an lạc, thảnh thơi, hạnh phúc, bất kể những gì xảy đến với mình từ con người và môi trường bên ngoài.

Đúng rồi, người ác có thể giàu

Đức Phật chú trọng vào vai trò của chủ ý, chỉ đạo và thủ lĩnh của tâm ý hơn là hành động và các tình huống bên ngoài, điều này mở ra cho chúng ta một lối nhìn mới, nhận thức rõ rằng người ác có thể giàu. Đúng vậy, với thủ đoạn, lọc lừa, với xảo trá điêu ngoa, với cách sống chụp giựt, những người này có thể làm giàu không chính đáng một cách dễ dàng. Thế nhưng, dù sống với khối tài sản lớn, quyền thế lớn, tâm hồn họ không lúc nào được thanh thản, hạnh phúc an vui mà bao khổ đau, lo sợ, bất an vây bủa. Điều này cũng có nghĩa khi ta hành động với chủ tâm thiện lành, không có nghĩa ta tránh được những tai ương, rủi ro, khó khăn trong cuộc sống, nhưng có một điều chắc chắn rằng, dù bất cứ điều gì đến với mình, tâm ta thanh thản, nhẹ nhàng và an ổn. Khi tâm ý thiện lành làm động cơ cho các tạo tác về thân, miệng và ý, ta có nội lực nhiều hơn, vững chãi hơn để duy trì tâm ở trạng thái cân bằng, ít chao đảo, nhờ đó tâm bình thản và không hao tốn năng lượng để kềm chế và làm lặng đi những xung động trong tâm thức. Tâm an ổn là tâm tự tại, hạnh phúc, an vui. Vậy mới biết khổ vui là trạng thái chủ quan của tâm chứ không phải do hoàn cảnh đem lại. Giàu có, tài sản nhiều chưa hẳn là hạnh phúc và nghèo nàn chưa chắc đã là khổ!
Nghiệp khởi từ tâm, tức là từ nhận thức, chứ không phải do sự vận hành của các quy luật khách quan. Đến đây, ta dễ dàng chấp nhận, bệnh không phải là kết quả của một nghiệp xấu nào đó ta đã gieo trong quá khứ. Là con người, như mọi sanh linh khác, ta già đi, đau đớn trong bệnh tật và kết thúc một giai đoạn sống bằng cái chết. Chết là một phần sự sống, là bản lễ giữa kiếp sống này và kiếp sống khác, có gì xấu ở đây mà quy cho nó là kết quả của một nghiệp xấu ác? Ta không có quyền chọn lựa không già, không bệnh, không chết mà điều ta chọn lựa một cách khôn ngoan là thái độ ta đón nhận những sự thật này như thế nào. Thay vì kháng cự, ta thỏa hiệp, thuận theo; thay vì oán trách và muốn nó khác đi, ta nên khách quan nhìn nó là một quy luật đi ngang qua mọi sự vật hiện tượng, trong đó có bản thân mình, cuộc sống mình cũng như cuộc sống bao người thân quanh ta.

Không chỉ có định luật nhân-quả vận hành cuộc sống

Trở lại với câu trích truyền thống về nghiệp đã dẫn nguồn ở trên, rằng “phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”. Nói một cách khác, ta gặt những gì ta đã gieo, có điều, không phải kết quả ở hành động bên ngoài theo kiểu nghĩ thuần túy “nông nghiệp” như đã trình bày, mà cái ta gieo và cái ta gặt đều ở trong các luống đất của tâm, chứ không phải ở ngoài thế giới hiện tượng này. Điều này không có nghĩa là các hành động không đưa đến kết quả tương ứng, thế nhưng, điều đáng nói là những kết quả ấy đôi khi không phải là kết quả tương ứng mà ta có thể dự đoán được.
Khi đi ra ngoài đường, gặp ai đó, ta cười, có khi ta nhận lại được nụ cười, nếu đó là người quen, chắc chắn là vậy. Nếu gặp người lạ, ta cười, rất có thể người ấy nghĩ ta không bình thường. Tệ hơn, có khi ta cười với ai đó, ta lại bị đánh oan vị bị cho là “cười đểu”. Thế đấy, đâu cần đánh người khác mới bị đánh lại, có khi cười cũng bị đánh đó chứ! Sở dĩ có những tình huống, phản ứng không lường được như vậy vì có nhiều mức độ, nhiều bình diện và góc độ để luật nhân quả vận hành trong vũ trụ đa chiều này chứ không phải nó hành hoạt trên một đường thẳng hay một mặt phẳng.

Các định luật nhân quả thể hiện nhiều mức độ khác nhau

Trong các bản luận tạng, sớ giải các kinh như Sớ giải kinh Trường bộ (chú giải kinh Đại bổn), Sớ giải bộ pháp tụ (chú giải Pháp tập luận), Nhập A tỳ đạt ma luận (tóm tắt A tỳ đat ma), các luận sư cho rằng, đức Phật không chỉ dạy định luật nhân quả mà còn nói định luật này rất chi tiết, rõ ràng về thể hiện ở các mức độ khác nhau vận hành trong vũ trụ. Mức độ căn bản và đơn giản nhất là định luật vậy lý (Utu Niyāma), liên quan đến tiến trình của những sự vật vô cơ, các hiện tượng vật lý như thời tiết, mưa, gió, nóng, lạnh. Ví dụ trời mưa thì lạnh, nắng thì nóng cũng là một dạng thức sơ đẳng của nhân quả.
Mức độ nhân quả thứ hai cao hơn tí là định luật chủng tử (Bīja Niyāma). Đây là định luật nhân quả vật lý trong tiến trình phát triển của những sự vật hữu cơ có mầm sống và có cấu trúc cơ thể phức tạp hơn, thấp nhất là cây cỏ. Do định luật nầy thì mầm nào sanh giống đó. Cây lúa do hạt lúa mà có, hạt xoài nảy mầm phát triển thành cây xoài.
Định luật pháp (Dhamma Niyāma) là định luật về sự vận hành của vạn pháp. Nói đến tất cả các quy luật vận động của thế giới tự nhiên và xã hội. Trong đó bao gồm luật hấp dẫn, định luật bảo toàn năng lượng, bảo toàn vật chất và những định luật khác trong vũ trụ v.v…
Định luật tâm lý (Citta Niyāma). Đây là định luật nhân quả thứ tư cao hơn và phức tạp hơn so với các định luật nhân quả trên. Định luật về tâm, tâm lý như ý niệm, ý tưởng, tưởng tượng, hồi ức, trí nhớ, tư tưởng, trực giác…Những trạng thái tâm lý, những diễn biến tâm lý nội tâm theo trình tự nhân quả tương quan đưa đến phán đoán, nhân thức, suy luận, chi phối sinh hoạt hữu thức hay vô thức của con người đều thuộc lĩnh vực của định luật này. Tự kiểm chứng lại những trải nghiệm của bản thân, ta thấy: Khi tâm tác ý thiện thì thân tâm thư thái nhẹ nhàng, an vui…., khi các tâm sở bất thiện có mặt thì thân tâm ta nặng nề, bất an, nóng nảy, trì trệ, bột chột, bất an….
Một luật nhân quả ở mức độ cao hơn nữa là định luật nghiệp (Kamma Niyāma). Trên hành tinh này chỉ có con người mới có khả năng tự định hình trong tâm về hành động mình sắp làm một cách có ý thức đầy đủ. Đó là chủ tâm, là động cơ và động lực con người đặt vào trong hành động mà cá nhân ấy thực hiện. Định luật nghiệp mở ra một không gian thoáng đãng cho chúng ta phản ứng, tự sắp xếp, điều chỉnh những tập khí của thân, miệng và ý. Cái quý giá nhất của đời sống con người nằm ở dạng tiềm năng của mỗi người mà chính bản thân người ấy cũng không thể hiểu hết. Định luật nhân quả, nói một cách khác, là một mức độ hoàn toàn mới về nhân quả vận hành trong vũ trụ được đức Phật  chỉ ra và nhấn mạnh. Chính định luật này mở ra cơ hội cho ta phát huy tối đa tuệ quán của mình đến mức cao nhất để chịu trách nhiệm hoàn toàn về cuộc đời mình.

Thay lời kết

Trong 5 định luật trên, 4 định luật đầu là định luật tự nhiên, chúng xảy ra theo tiến trình nhân quả khách quan chứ không theo nghiệp báo. Chỉ có định luật nghiệp mới xảy ra theo nhân quả nghiệp báo. Những hành động và phản ứng tâm lý có ý thức, mang tính đạo đức, luân lý (thiện, bất thiện, vô ký), những quyết định, những chủ đích, những hành động có đầu tư ý chí của mỗi cá nhân mới tạo ra báo ứng của nghiệp. Như vậy, chúng ta cần hiểu và phân biêt rõ đâu là nhân quả khách quan, đâu là nghiệp báo chủ quan. Phạm vi của các định luật nhân quả khách quan rất rộng lớn. Nếu chúng ta không thấu triệt dễ sinh ra ngộ nhận, cái gì cũng đổ thừa cho nghiệp thì không chính xác, lại tạo tâm lý nặng nề khi nghi ngờ về giáo lý nghiệp mà mất phương hướng trong cuộc sống.
Nếu nói rằng tất cả mọi thứ đều là nghiệp của  mình nghĩa là ta đơn giản hóa cuộc sống sinh động này thành một màu đơn điệu trên một trục nhân-quả mà thôi. Làm như vậy, ta đồng thời “vô hiệu hóa” các định luật nhân quả khách quan của vật lý, chủng tử, vạn pháp và tâm lý mà chỉ thấy sự vận hành của mỗi một định luật nhân quả mà thôi. Thật ra, luật nhân quả chỉ là một trong năm định luật tác động, vận hành vạn pháp trong vũ trụ. Nhận ra điều này, ta dễ dàng hiểu rằng một sự kiện, hiện tượng, sự việc nào đó chỉ là kết quả của một số nguyên nhân và các duyên (điều kiện) ở phương diện vật lý thôi chứ không phải là quả của nghiệp. Ta cũng không mơ hồ nghĩ hay tin rằng, bằng cách cho đi tài vật, ta sẽ giàu sang, sung túc của cải trong tương lai, trong khi động cơ của hành động mới là chủ nhân tạo nghiệp. Đừng quan tâm đến cái bóng cây nghiêng mà ta phải nỗ lực sửa cái cây cho thẳng. Nhận rõ điều này, với chánh niệm tỉnh giác, ta dùng phương pháp thế như bài kinh An trú tầm (Trung bộ kinh số 20) diễn tả bằng hình ảnh một người thợ mộc dùng cái nêm này để đánh bật một cái nêm khác ra, ta “lọc máu” cho tâm, thay tham, sân, si bằng từ, bi, hỷ, xả để đưa nguồn năng lượng tươi mát này vào trong mỗi tác ý của hành động thuộc về thân, miệng và ý, chắc chắc những chủ tâm thiện lành này sẽ quyết định ta là con người như thế nào mà không cần quan tâm tạo  nghiệp gì để được giàu sang sung sướng.
Quá trình “lọc máu cho tâm” mới chính là nghiệp của mình vậy!