Chánh niệm: đem tâm về chung sống với thân
“Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào”. Bắt đầu
với bài thực tập đơn giản như thế, ta có thể chuyển hóa cuộc sống
mình. Hòa thượng Nhất Hạnh, một bậc thầy lớn dạy về chánh niệm,
đã đoan chắc như thế khi hướng dẫn các bài tập thở cho người bắt
đầu.
Hòa
thượng Nhất Hạnh có lần nói, ngôi nhà đích thực của chúng ta là
hiện tại, là bây giờ, là ở đây, không phải ở trong quá khứ đã xa
mờ, không phải ở tương lai còn tù mù chưa rõ. Đúng vậy, ai cũng chấp
nhận điều này có lý, nhưng không
phải ai cũng làm được. Dù có lúc nào đó ta làm được việc trở về
ngôi nhà trong hiện tại của mình, điều này cũng không có nghĩa là
lúc nào cũng làm được.
Chánh niệm là nguồn
năng lượng giúp chúng ta nhận ra những điều kiện để có được hạnh
phúc đang hiện diện trong ta, trong cuộc sống này, ngay tại nơi đây,
ngay vào lúc này, không ở đâu xa vời, không hẹn một thời khắc nào khác
trong tương lai. Hầu hết chúng ta không ý thức việc này, nên ta không
biết trân trọng và không thật sự tận hưởng hạnh phúc của hiện tại.
Ta thở vào, ta thở ra từ khi mới sinh ra cho đến nay, mỗi hơi thở là
một luồng năng lượng hạnh phúc mà mấy ai trong chúng ta biết hưởng
nguồn hạnh phúc này? Ta chỉ có thể chạm đến sự kỳ diệu của sự
sống khi có chánh niệm trong hiện tại và nếu làm được, ta chạm đến
nguồn hạnh phúc và an lạc vô biên.
Trong
cuộc sống, hầu hết thời gian ta không dành cho hiện tại, ta đang bỏ
quên hiện tại nhiệm mầu. Những lo toan, sợ hãi, giận hờn, tiếc nuối
về quá khứ và về tương lai choán hết tâm trí ta, chiếm hết thời gian
ta và lấy đi hầu hết nguồn năng lượng sống của ta để rồi ta không
thật sự có mặt trong hiện tại. Thân ta đây mà ta không thật sự có
mặt nơi đây, bây giờ. Ta sống trong thất niệm. Ở mức độ vi tế, ta
chẳng khác nào một bệnh nhân tâm thần vậy!
Trái
với thất niệm là chánh niệm. Chánh niệm là một trạng thái hòa
quyện giữa thân và tâm, thân đâu, tâm đó, và khi ấy, chúng ta thật sự
có mặt trong giây phút hiện tại. Khi đó, chúng ta cảm nhận đầy đủ
những hạnh phúc đang có, một nguồn hạnh phúc đến một cách tự nhiên.
Thực
hành chánh niệm đem lại cho ta niềm vui mà không cần một nỗ lực, cố
gắng nào cả, đơn giản là ta giữ tâm trên hành động và cảm thọ mình
đang có. Khi thở, ta chỉ thở, có cần cố gắng để thở đâu. Với người
bình thường, thở vào, thở ra là một hoạt động tự nhiên để duy trì
sự sống. Ta thở cả đời mà không cần bất cứ một sự cố gắng nào.
Thế nhưng, thông thường, thân ta thở mà tâm ta lăng xăng nghĩ suy, nhớ
tiếc. Bây giờ ta tập tâm cùng sống với hơi thở như thân vậy. Đi trong
chánh niệm cũng vậy, từng bước chân vững chãi, thảnh thơi:
dỡ…bước…chạm đất, ta ý thức rõ ràng trong từng sát na sống mà không
hề cần đến một sự nỗ lực nào cả. Mỗi bước đi trong chánh niệm là đi trong bình an, đi trong hoan hỷ, đi
trong hạnh phúc và ai trong chúng ta đều có thể làm được việc này.
Thực hành chánh niệm là tập dừng lại,
đầu tiên là dừng nói, không nói bên ngoài mà cũng chẳng nói bên
trong. Nói bên ngoài là một phương tiện truyền thông giao tiếp, nói bên
trong là những ý tưởng không ngừng lao xao, trồi hụp trong tâm mình như
một nồi nước sôi mà không chịu đứng yên. Ta không phải dùng một lực
nào đó để đè nén, ép tâm phải dừng mà dừng lại một cách có ý
thức và tự nguyện, để làm cho tâm không tiêu hao năng lượng một cách
phung phí. Với cách này, tâm sẽ tươi nhuận, mới mẻ và thanh thản,
không phải bận rộn mệt nhọc.
Bên
cạnh niềm vui và hạnh phúc có từ chánh niệm, một nguồn hạnh phúc
khác nữa đến từ sự chú tâm. Năng lượng chánh niệm mang theo năng
lượng chú tâm. Khi ta chánh niệm về một cái gì đó, ví dụ như một
bông hoa, ta có thể duy trì ở bông hoa ấy một sự chú tâm, chúng ta
nói rằng ta có sự chú tâm vào bông hoa. Khi chánh niệm trở thành sức
mạnh, thì sự chú tâm cũng trở thành sức mạnh, và một khi đã toàn
tâm toàn ý trong sự chú tâm, chúng ta có cơ hội phá vỡ bức thành
trì ngăn ngại, thành tựu tuệ giác. Nếu ta thực hành thiền chánh
niệm trên đối tượng là đám mây, ta có tuệ quán về bản chất của đám
mây. Hoặc nếu chú tâm chánh niệm trên các viên sỏi, ta sẽ hiểu được
bản chất của các viên sỏi. Nếu chúng ta thực tập thiền quán với
đối tượng là một con người, và nếu chánh niệm chú tâm đúng mức, ta
có thể phá vỡ mọi thành trì ngăn ngại và hiểu được bản chất của
con người ấy. Tương tự như vậy, ta có thể thực hành thiền quán trên
chính bản thân mình, trên cơn giận, nỗi sợ, niềm vui hay sự an tịnh
trong tâm mình.
Bất
cứ cái gì cũng có thể trở thành đối tượng của thiền quán, và với
năng lượng mạnh mẽ của chú tâm, ta có thể phá vỡ mọi thành trì ngăn
ngại và phát triển tuệ giác. Ví như một chiếc kính lúp có thể gom
tụ ánh sáng mặt trời. Nếu ta đặt vào điểm hội tụ ánh sáng ấy một
mẩu giấy thì mẩu giấy ấy bốc cháy. Tương tự như vậy, khi sự chánh
niệm và chú tâm trở thành sức mạnh, tuệ giác phát ra từ nguồn sức
mạnh này có thể giải phóng ta ra khỏi sợ hãi, giận dữ, thất vọng
và mang đến cho ta niềm vui chân thật, sự bình an chân thật và hạnh
phúc thật sự.
Khi
ta nhìn sâu và kỹ vào toàn cảnh rộng lớn của bình minh, với chánh
niệm và chú tâm nhiều hơn, ta sẽ thấy vẻ đẹp của bình minh hiện ra
rõ nét hơn. Ví như có người mời mình một tách trà, rất thơm ngon.
Nếu tâm chúng ta phân tán, ta không thể nào thưởng thức thật sự hương
thơm và vị ngon của tách trà. Khi
chánh niệm vào trà, chúng ta phải tập trung vào đó, do đó trà có
thể tỏa hương thơm và hấp dẫn ta. Đó là lý do tại sao chánh niệm và
chú tâm là nguồn đem lại hạnh phúc. Đó cũng là lý do để một người
thực tập tốt biết cách chế tác niềm vui trong từng sát na, tạo cảm
giác hạnh phúc trong mọi lúc mọi nơi.
Bài thực tập
chánh niệm đầu tiên: chánh niệm hơi thở
Bài
thực tập đầu tiên rất đơn giản, nhưng sức mạnh và kết quả của nó
rất lớn. Bài tập này đơn giản là chú tâm để nhận biết hơi thở vàolà
hơi thở vô, hơi thở ra là hơi thở ra. Khi hít vào, ta biết đó là hơi
thở vào. Khi thở ra, ta chánh niệm biết đó là hơi thở ra.
Đơn
thuần là ghi nhận: đây là hơi thở vào, đây là hơi thở ra. Rất đơn
giản, rất nhẹ nhàng. Để có thể nhận biết hơi thở vào là hơi thở
vào, ta phải đem sự chú tâm về với chính mình. Cái mà ta đang nhận
biết hơi thở vào chính là tâm, là đối tượng của tâm – đối tượng của
chánh niệm – là hơi thở vô. Chánh niệm luôn là sự đặt toàn tâm vào
một cái gì đó. Khi ta uống trà một cách toàn tâm, như vậy gọi là
uống trà trong chánh niệm. Khi ta bước đi và đặt toàn tâm vào bước
chân, đó gọi là đi trong chánh niệm. Khi ta đặt toàn tâm vào hơi thở,
đó là thở trong chánh niệm.
Như
vậy, đối tượng của chánh niệm là hơi thở, và ta chỉ việc chú tâm
vào hơi thở. Đang thở vào, đây là hơi thở vào của tôi. Đang thở ra,
đây là hơi thở ra của tôi. Khi làm như vậy, các hoạt động lăng xăng
của tâm sẽ dừng lại. Đây là phép mầu của sự thực hành. Ta không
nghĩ về quá khứ, ta không mơ tưởng đến tương lai. Ta không nghĩ về
những kế hoạch dự định, vì ta đang chú tâm vào hơi thở, ta đang chánh
niệm vào hơi thở.
Mọi
việc trở nên dần tốt hơn với cách thực hành này. Ta có thể thích
hơi thở vào của mình. Cách thực tập như thế giúp ta cảm thấy thoải
mái, dễ chịu. Cách thực tập thế này thì người chết đâu có thể làm
được nữa. Ta còn sống, ta hạnh phúc khi có thể làm được điều này.
Ta đang thở vào, và trong khi đang thở vào, ta biết rõ ta đang còn
sống. Thở vào là cách ăn mừng một sự thật rằng ta hãy còn sống,
nên đây là một niềm vui. Khi sống trong niềm vui và hạnh phúc, ta không
cảm thấy cần có một sự nỗ lực nào cả. Ta còn sống; ta đang thở vào.
Mình đang còn sống là một điều kỳ diệu. Điều kỳ diệu nhất trong
tất cả các điều kỳ diệu là ta còn sống, và khi thở vào, ta chạm
tay đến điều kỳ diệu ấy. Do đó, đang thở vào là cách ăn mừng ở
đời.
Một
hơi thở vào mất 3, 4 hoặc 5 giây tùy vào mỗi người. Đó là thời gian
để sống, để thưởng thức hơi thở. Ta không can thiệp vào hơi thở của
mình. Nếu hơi thở ta ngắn, cứ để nó ngắn như vậy. Nếu hơi thở ta
dài, cứ để nó dài như nó đang là. Đừng cố gắng ép buộc nó. Sự
thực tập đơn giản là nhận biết hơi thở vào và hơi thở ra. Chừng đó
thôi là tốt rồi. Đơn giản vậy mà nó đem lại hiệu quả nhiều lắm đó.
Bài thực tập
chánh niệm thứ hai: định tâm
Bài
thực tập thứ hai là trong khi thở vào, ta phải theo hơi thở vào từ
đầu đến cuối. Nếu hơi thở vào mất 3 hoặc 4 giây, ta phải chánh niệm
suốt 3 hoặc 4 giây đó. Trong khi thở vào, tâm có mặt theo suốt đường
đi của hơi thở vào. Trong khi thở ra, tâm bám theo suốt đường đi của
hơi thở ra. Từ đầu hơi thở ra đến cuối hơi thở ra, tâm ta luôn có mặt.
Do đó, chánh niệm luôn liên tục, chất lượng định tâm nhờ đó mà được
cải thiện.
Như
vậy, bài thực tập thứ hai tiếp theo là chú tâm trọn vẹn vào hơi thở
vào, hơi thở ra. Không luận là hơi thở ngắn hay dài, điều đó không
quan trọng. Điều quan trọng là chú tâm vào hơi thở vào và hơi thở ra
từ đầu đến cuối. Sự chánh niệm cần được duy trì liên tục, không có
gián đoạn. Giả sử khi ta đang thở vào, bỗng nhiên ta nghĩ “ồ, tôi quên
tắt đèn trong phòng rồi”. Như thế là có sự gián đoạn. Phải dán tâm
vào hơi thở vào một cách trọn vẹn xuyên suốt. Khi ấy, ta trau giồi
chánh niệm và chú tâm. Ta trở thành chính hơi thở vào. Ta trở thành
chính hơi thở ra. Nếu tiếp tục thực tập như vậy, hơi thở của ta trở
nên sâu hơn và nhẹ hơn, hòa hợp hơn và bình an hơn một cách tự nhiên.
Ta không cần đến một sự nỗ lực nào cả, nó diễn ra một cách tự
nhiên.
Bài thực tập chánh
niệm thứ ba: chánh niệm trên thân
Bài
thực tập thứ ba là ta ý thức thân của mình khi đang thở. “Thở vào,
tôi ý thức toàn thân”. Đây là bước thực tập tiếp theo.
Trong
bài thực tập đầu tiên, ta trở nên ý thức rõ ràng về hơi thở vào,
hơi thở ra. Bởi vì bây giờ ta có thể tạo ra nguồn năng lượng chánh
niệm qua việc thở trong chánh niệm, ta có thể sử dụng nguồn năng
lượng này để nhận biết về thân.
“Khi thở vào, tôi nhận biết thân của tôi; khi thở ra,
tôi nhận biết thân của tôi”. Tôi biết thân của tôi ở đây. Điều này giúp
ta đem toàn tâm ý về với thân. Thân và tâm hòa quyện thành một thể. Khi
tâm với thân là một, ta dễ dàng sống trong hiện tại, bây giờ và ở
đây. Ta sống một cách trọn vẹn. Ta có thể chạm đến những điều kỳ
diệu của cuộc sống trong ta và quanh ta.
Bài
thực tập này đơn giản, nhưng khi hòa hợp thân với tâm làm một, hiệu
quả của nó rất lớn. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hiếm khi
nào làm được việc này. Thân chúng ta ở đây mà tâm thì rong chơi ở nơi
khác. Ta có thể bắt gặp tâm khi nghĩ nhớ về quá khứ, hoặc mơ tưởng
tương lai, bám vào trong các tiếc nuối, buồn rầu, lo sợ và không chắc
chắn, và do vậy tâm ta không có ở đó cùng với thân. Có người thân
thì hiện diện trong ngôi nhà của mình, mà tâm thì không ở đó. Tâm
chạy về tương lai, chạy đến các dự án chứ đâu có mặt ở đó với những
người thân quanh mình. Ta có thể hỏi một hành giả “có AI ở nhà đó?” như một câu nhắc để
giúp người ấy kịp thời đem tâm về với thân.
Bài
thực tập thứ ba là ý thức được thân mình được thực hành như vậy.
“Thở vào, tôi ý thức được thân mình”. Khi thực hành chánh niệm hơi
thở, chất lượng hơi thở vào, hơi thở ra được cải thiện. Khi ấy, ta có
sự hòa hợp và bình an nhiều hơn trong hơi thở. Nếu ta tiếp tục thực
tập như vậy, sự an bình và hòa hợp sẽ thấm nhuần vào thân và đem
lại nhiều lợi ích cho ta.
Bài thực tập
chánh niệm thứ tư: buông thư
Bài
thực tập tiếp theo là buông lỏng toàn thân. Khi chúng ta thật sự ý
thức được thân, ta nhận thấy có những cảm giác khác nhau trên cơ thể,
có phần trên cơ thể căng thẳng và đau, có phần nhẹ nhàng dễ chịu.
Sự căng thẳng và đau đớn tích chứa lại trong một thời gian dài sẽ
làm cho cơ thể mệt mỏi, trong khi tâm ta lại phóng đi nơi khác, mà không
có mặt để có thể giúp thân buông lỏng, giải tỏa sự nặng nề này. Do
đó, học cách buông thư để giải tỏa sự căng thẳng của thân là điều vô
cùng quan trọng.
Buông
thư có thể thực hành trong mọi tư thế: đứng, ngồi hay nằm. Ta có thể
thực tập buông thư toàn thân, hoàn toàn buông lỏng các cơ, thoải mái
nhất là trong tư thế ngồi hoặc nằm. Trong lúc đang chạy xe ngoài
đường, ta có thể dễ dàng nhận biết sự căng thẳng của thân. Ta nôn
nóng mong nhanh đến nơi và ta không thích thú gì thời gian phơi nắng
ngoài đường. Khi đến đèn đỏ, ta nôn nóng mong đèn đỏ sớm chuyển sang
đèn xanh để ta có thể tiếp tục đi. Thế nhưng đèn đỏ có thể là một
tín hiệu. Nó có thể nhắc ta rằng có một sự căng thẳng đang có mặt
trong ta, sự căng thẳng muốn chạy xe đến nơi càng nhanh càng tốt. Nếu
nhận ra điều này, ta có thể tận dụng đèn đỏ để thực hành giảm sự
căng thẳng này. Bạn có thể ngồi thư giãn, không căng thẳng các cơ nơi
tay, chân và mắt tạm ngưng sự tập trung cao độ, sử dụng 10 giây đèn
đỏ để thực hành chánh niệm hơi thở và buông lỏng thư giãn sự căng
thẳng các cơ trong thân thể.
Như
vậy, vào lần tới, khi gặp đèn đỏ, ta lại thích ngồi thư giãn và
thực hành bài tập thứ tư này “thở vào, tôi ý thức toàn thân. Thở
ra, tôi buông lỏng thư giãn các cơ”. Sự bình an có thể có mặt trong
lúc ấy và điều này có thể thực hành nhiều lần trong ngày – tại nơi
làm việc, trong khi đang chạy xe, đang nấu ăn, đang rửa chén bát, đang
tưới rau trong vườn. Lúc nào ta cũng có thể thực hành buông lỏng, thư
giãn các cơ bắp trong thân mình.
Bài thực tập
chánh niệm thứ năm: Thiền trong lúc đi
Khi
ta thực hành thở trong chánh niệm, đơn giản là ta dán tâm vào hơi
thở. Ta trở nên ý thức về hơi thở và điều này có thể tạo nên sự thích
thú khi ta dần thực hành thuần thục. Không cần một sự nỗ lực nào ta
cũng có thể thực tập được. Thực hành chánh niệm khi đi cũng tương
tự như vậy. Mỗi bước chân tạo nên niềm vui. Mỗi bước chân giúp chúng
ta chạm đến sự nhiệm mầu của cuộc sống. Mỗi bước chân là niềm an
lạc. Điều này có thể thực hiện được.
Ta
không phải nỗ lực làm gì suốt trong quá trình thực hành thiền đi. Ta
có mặt tại đó, thân đâu tâm đó. Ta đích thực sống trọn vẹn, có mặt
trọn vẹn bây giờ và ở đây. Với mỗi bước chân, ta chạm đến sự nhiệm
mầu của cuộc sống trong ta và quanh ta. Khi ta đi như vậy, mỗi bước
chân mang đến sự tươi mới. Mỗi bước chân đem lại bình an và hạnh
phúc, vì mỗi bước chân là một phép mầu.
Phép
mầu thật sự không phải bay trên không trung hay đi trong lửa. Phép mầu
thật sự là đi trên đất và ta có thể thi triển phép mầu này bất cứ
lúc nào. Chỉ cần đem tâm về với thân trong từng bước chân để trở nên
sống động và thế là ta có thể thi triển phép mầu đi trên đất vậy.