Hôm nay, ngày trăng tròn tháng Vesak (ngày
Rằm tháng Tư), ngày Phật Đản. Thông thường, nhiều người thường xem ngày này
là ngày kỷ niệm sinh nhật của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên, theo
truyền thống, đây là ngày tưởng niệm ba sự kiện – Đản sanh, Giác ngộ và nhập
Niết bàn–của Đức Phật, gọi là ngày Tam Hợp.
Ngày này hằng năm, khắp nơi trên thế giới,
nhiều người nhớ về và làm lễ tưởng niệm, không ít người coi đây là một lễ hội
tôn giáo và văn hóa của cộng đồng mình. Trong bất cứ hình thức tưởng niệm nào,
dù là tập thể hay cá nhân, mỗi người có một cách tưởng niệm riêng. Ở đây, người
viết xin được chia sẻ vài ý tưởng mà bản thân cảm nhận được trong quá trình học
Phật bằng ngôn ngữ bình dân nhất như là một cách tưởng niệm ân đức của Đức Phật
và những lời dạy của Ngài nhân ngày Phật đản.
Chúng ta vẫn quen chấp nhận đức Phật sinh năm 624 tr. TL và nhập Niết-bàn 544 tr. TL và Phật lịch được tính trên cơ sở niên đại của giả thuyết này. Tuy nhiên, bằng cách nghiên cứu kỳ công của mình, R. Gombrich xác nhận là Đản sinh năm 484 và nhập Niết-bàn năm 404 tr.TL. Sực chênh lệch về niên đại của đức Phật thật ra không mấy quan trọng, điều đáng ghi nhận là đời sống tuyệt vời của Ngài trong 80 năm cuộc đời để rồi hằng năm, hàng tỷ người hân hoan chào đón ngày sinh của Ngài trên khắp các miền nhân gian.
Đức Phật, một nhân vật lịch sử mà ngày nay, những dấu ấn lịch sử dù có bị thời gian xóa nhòa cũng đủ làm chứng cứ hùng hồn cho sự có mặt của Ngài trên cuộc đời này. Ngài vốn xuất thân là một hoàng tử của dòng họ Sakya. Lớn lên, Ngài
xuất gia, dốc tâm và bền chí trên con đường chuyển hóa những tâm tưởng tiêu
cực, phát huy những tư duy tích cực, hoàn thiện bản thân đến mức toàn thiện.
Bằng con đường chuyển hóa đó, Ngài chứng ngộ Chân lý và đem kinh nghiệm trau
sửa của mình để truyền dạy lại cho những ai có cơ duyên với Ngài. Sau 45 năm
miệt mài thực hiện hạnh nguyện giúp người của mình, Đức Phật, thể hiện giống
như bao con người khác, đã gửi xác thân về với cát bụi lúc Ngài tròn 80 tuổi.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, những lời dạy
của Ngài tiếp tục được truyền dạy, nhiều người hưởng ứng, tiếp thu và thực hành
đều có lợi ích. Mãi đến ngày nay và có thể còn lâu dài trong tương lai, những
lời dạy vượt cả không gian và thời gian của Ngài luôn có giá trị thiết thực
trong cuộc sống của chúng ta.
Nhiều người sùng kính Đức Phật vì Ngài là bậc
giáo chủ của một tôn giáo lớn có tên ‘Phật giáo’; có người ngưỡng mộ Đức Phật
như một triết gia, và không ít người tiếp cận Đức Phật như đến với một vị Thầy vĩ đại. Với người học Phật đúng
nghĩa, Đức Phật lúc nào cũng là một vị Thầy lớn, chỉ dạy con đường sáng để hành
giả từng bước học theo và thực hành những điều Ngài đã làm nhằm có được cuộc
sống an vui hơn, nhẹ nhàng hơn. Trong phạm vi bài này, người viết chỉ chia sẻ
một vài điều thiết thực, có giá trị thực tiễn với bản thân từ những lời dạy của
Đức Phật, một bậc thầy vĩ đại nhất trong tất cả các bậc thầy.
Điều
đầu tiên rất thiết thực trong lời dạy Đức Phật là Ngài nhiều lần dạy rằng, hãy
sống với hiện tại. Ngài luôn nhắc một sự thật hiển nhiên mà
ít ai chịu chấp nhận, đó là quá khứ đã qua rồi. Dù đó là việc gì đi nữa, nó
cũng đã xảy ra rồi và trôi vào dĩ vãng. Đừng để tâm tiếc nuối, bám níu hay buồn
phiền, khổ đau về việc đã xảy ra, vì chúng ta không thể nào quay ngược thời
gian để có thể thay đổi quá khứ, để có thể ‘xóa nháp’ làm lại được. Ngài cũng
khuyên chúng ta không rượt đuổi theo những mơ tưởng ở tương lai, vì tương lai
vẫn chưa đến. Chỉ có hiện tại là nhiệm mầu và chúng ta hãy sống với giây phút
nhiệm mầu này để tự mình cảm nhận trọn vẹn nghĩa sống. Nói như vậy không có
nghĩa là không có hoạch định chương trình gì cho tương lai. Mình có thể lên kế
hoạch cho hôm nay, cho ngày mai hoặc xa hơn nữa trên cơ sở thực tế của hiện
tại, thì hành động ‘lên kế hoạch’ ấy chính là hiện tại.
Hãy dành trọn vẹn tâm trí, chuyên chú vào
việc chúng ta đang làm ấy gọi là sống trong hiện tại. Nói một cách dễ hiểu, khi
nào chúng ta làm việc gì mà giữ được ‘thân đâu, tâm đó’ nghĩa là chúng ta đang
sống trong hiện tại vậy. Thế nhưng, thường thì con người bình thường như chúng
ta thiếu khả năng này hoặc có nhưng không thường xuyên. Ví dụ đang chạy xe trên
đường mà trong đầu lo nghĩ, trước khi ra khỏi nhà, mình tắt đèn nhà khách chưa
nhỉ? Tâm bị chi phối bởi một việc khác khi ta đang tham gia giao thông thì nguy
cơ gây nên tai nạn sẽ tăng nhiều lần hơn so với khi chúng ta chú tâm vào một
việc duy nhất là điều khiển phương tiện giao thông mình đang sử dụng trong môi trường
cụ thể hiện tại.
Trong cuộc sống, khi áp dụng điều này, chúng
ta có khi thành công, có lúc chưa; nghĩa là có khi nhớ đem tâm về với thân, có
khi quên thì tâm dong ruổi cùng nơi khắp chốn. Khi nào chúng ta duy trì được
tâm trong thân, thì hiệu quả công việc tốt hơn nhiều lắm và chúng ta không phải
phí công sức và lãng phí thời gian. Một điều quan trọng hơn là khi đem tâm về
với thân, chúng ta có thể nhận biết, theo dõi, kiểm soát và làm chủ tâm ý của
mình một cách tốt hơn và điều này giúp mình tránh được nhiều sai lầm và những
điều đáng tiếc trong cuộc sống. Chúng ta sẽ thấy cuộc sống vui hơn và ý nghĩa
hơn khi biết sống với hiện tại vì hiện tại đã hàm chứa cả quá khứ và tương lai.
Điều
thứ hai, Đức Phật dạy chúng ta cách nhìn vấn đề xuyên suốt một cách biện chứng
và khoa học theo bốn bước.
Bước thứ nhất: Theo lời dạy của Đức
Phật, khi gặp một vấn đề gì trong cuộc sống, bất cứ đó là vấn đề gì, không nhất
thiết phải là rắc rối khó khăn, ta hãy định hình vấn đề, xác định tính chất của
nó, nhìn thấy việc cần giải quyết.
Bước thứ hai: chúng ta cần xác định
cho được những mối quan hệ nhân quả liên quan đến vấn đề này. Việc tìm hiểu
nguyên nhân ‘tại sao’ cho một vấn đề giúp chúng ta rất nhiều trong cuộc sống.
Một khi xác định được nguyên nhân đưa đến tình trạng hiện tại, việc duy trì hay
chấm dứt hiện trạng ấy là điều chúng ta có thể làm được nếu chúng ta nỗ lực và
quyết tâm. Nếu vấn đề mình đang gặp ấy là vui, là hạnh phúc thật sự, chúng ta
sẽ biết cách để nỗ lực nuôi dưỡng niềm vui ấy. Ngược lại, nếu đó là nỗi đau và
điều bất như ý, chúng ta cũng có thể nỗ lực chấm dứt tình trạng này.
Bước thứ ba: Sau khi tìm hiểu và xác
định được nguyên nhân, Đức Phật dạy bước thứ ba là chúng ta phải biết nhìn để
thấy được viễn cảnh nếu như tình trạng (đau khổ) này được chấm dứt hay tình
trạng (an lạc) này kéo dài như là một cái đích để ta hướng đến.
Bước cuối cùng: Đức Phật khuyên chúng
ta tìm ra giải pháp cụ thể thích hợp nhất để thành tựu mục đích của mình là
chấm dứt vấn đề (khổ đau) hay duy trì trạng huống (an lạc) này.
Cách nhìn vấn đề xuyên suốt từ việc xác
định nó đến khi áp dụng phương pháp hợp lý để giải quyết thành công vấn đề dựa
trên các nguyên tắc căn bản của triết lý nền tảng mà Đức Phật dạy đó gọi là ‘Tứ
đế’ (bốn chân lý cao thượng). Cuộc đời sẽ thong dong và đỡ rối hơn rất nhiều
nếu chúng ta tập nhìn và phân tích vấn đề theo lăng kính này. Chỉ dừng lại ở
bước thứ nhất là thấy vấn đề và bước thứ hai là thấy nguyên nhân của vấn đề mà
vội kết luận Đạo Phật là bi quan yếm thế như một số người là thiếu công bằng và
không chính xác vậy.
Điều
thứ ba, Đức Phật dạy chúng ta cần luôn luôn quán sát nội tâm để nuôi dưỡng hạt giống tích cực thiện lành.
Theo lời Phật dạy, tâm chúng ta thay đổi liên tục, do đó muốn hiểu được mình
chúng ta cần chăm sóc tâm mình luôn luôn. Chỉ cần theo dõi tâm mình mỗi khi có
một tâm niệm nào đó khởi lên. Phương pháp mà Đức Phật thực hành và dạy chư đệ
tử là đừng đè nén, không triệt tiêu, cũng chẳng cần tác động phản ứng gì cả,
thuần túy là theo dõi, quán sát tâm một cách có ý thức. Một niệm lành khởi lên,
chúng ta cần biết, ta đang có một niệm lành. Khi một niệm xấu ác sinh khởi, ta
liền nhận biết, ta đang có một niệm ác đây. Chắc có người thắc mắc, tại sao chỉ
cần ý thức về các tâm niệm mình thôi mà các hạt giống tích cực thiện lành được
nuôi dưỡng? Thật ra, khi các tâm niệm xấu ác và tiêu cực vừa sinh khởi, chỉ cần
ý thức được về nó, nó liền tự mất. Tâm niệm tiêu cực không thể sống trong môi
trường ý thức. Điều này chỉ có thể cảm nhận đầy đủ khi thực hành. Thế nhưng vấn
đề giữ cho được sự chú tâm liên tục là một điều cực kỳ khó nên chúng ta cần
luyện tập dần dần, càng liên tục và bền bỉ càng tốt, vì mức độ lợi ích mình đạt
được luôn tương ứng với nỗ lực của bản thân qua phép thử của thời gian.
Điều thứ tư chúng ta cần học từ Đức Phật là hãy chịu trách nhiệm với bản thân. Đức Phật dạy mỗi cá nhân hãy làm chủ bản thân mình, quyết định vận mệnh của bản thân chứ đừng giao phó trông chờ vào ai cả. Mỗi người là một hải đảo tự thân.
Ý niệm cầu xin Đức Phật hộ trì che chở như một thần linh hoàn toàn xa lạ với người học Phật chân chánh. Ngài dạy “ta là kẻ thừa tự của nghiệp, là chủ nhân của nghiệp” (nên hiểu nghiệp là hành động có chủ tâm) thì việc thay đổi mình hoàn toàn là chuyện của cá nhân. Đức Phật chỉ là người vạch ra con đường, còn bước đi trên con đường đó hay không là chuyện của mỗi người.
Ý niệm cầu xin Đức Phật hộ trì che chở như một thần linh hoàn toàn xa lạ với người học Phật chân chánh. Ngài dạy “ta là kẻ thừa tự của nghiệp, là chủ nhân của nghiệp” (nên hiểu nghiệp là hành động có chủ tâm) thì việc thay đổi mình hoàn toàn là chuyện của cá nhân. Đức Phật chỉ là người vạch ra con đường, còn bước đi trên con đường đó hay không là chuyện của mỗi người.
Đức Phật dạy chúng ta tiếp nhận những lời
Ngài dạy một cách sáng suốt, có chọn lọc và bằng kinh nghiệm tự thân, thấy điều
gì đúng thì hãy chấp nhận. Không chấp nhận điều gì chỉ vì lời ấy của người xưa
truyền lại, hay số đông người nghe theo, mà chỉ chấp nhận điều gì bản thân mình
thấy đúng sau khi xem xét kỹ lưỡng, như người thợ vàng dùng nhiều cách để thử
vàng vậy. Ngài thường dạy trong các bài kinh rằng, giá trị của những lời Ngài
dạy là đến để thấy, chứ không phải đến để tin.
Niềm tin mù quáng không có chỗ trong giáo
lý của Đức Phật. Chúng ta cần thấy trách nhiệm của mình đối với từng động thái
hành vi của bản thân, để không quy kết, đổ tội cho các yếu tố bên ngoài hoặc tin
vào hên xui may rủi với những việc xảy ra trong cuộc sống. Chúng ta sẽ thấy
mạnh mẽ hơn, nghị lực hơn khi áp dụng lời dạy này của Đức Phật.
Nói vậy chắc có người thắc mắc, hỏi vậy
người học Phật có lạy Phật không? Có chứ! nhưng người tập theo hạnh Phật khi
lạy Ngài không để cầu xin Ngài điều gì, đơn giản là trước một nhân cách vĩ đại,
chúng ta ngưỡng mộ cúi đầu. Ai hỏi ‘vậy có tin Phật không?’, chúng ta mạnh dạn
nói, tin chứ! Chúng ta tin Ngài là một con người bằng xương bằng thịt mà có thể
làm được điều phi thường thì chúng ta, những con người bằng thịt bằng xương
cũng có thể tập dần dần để bước theo con đường mà Ngài đã đi và vẽ lại bản đồ
hướng dẫn cho bao thế hệ sau.
Một
điều thứ năm nữa mà người viết học được từ những lời dạy của Đức Phật là quan
niệm thiện ác. Đức Phật dạy rằng không có người thiện, kẻ
ác mà chỉ có hành vi thiện ác. Người làm ác, đơn giản là lúc đó người ấy chưa
đủ sáng suốt để có khả năng kiểm soát và làm chủ tư suy cũng như hành động của
bản thân. Nói cách khác, đó là trạng thái thiếu tỉnh thức. Chỉ có bậc tu giải
thoát mới có khả năng tỉnh giác thường khi, còn người bình thường như chúng ta thì
có khi có ý tưởng thiện lành, có lúc nảy sinh ý tưởng bất thiện. Hiểu được theo
cách này, chúng ta có thái độ tích cực và dễ dàng trải lòng bao dung thấu cảm
sâu sắc với người làm ác và cho họ cơ hội để làm mới. Điều này cũng có nghĩa,
chúng ta có tâm công bằng với người khác như đối với chính bản thân mình. Ai cũng
có lúc thiếu sáng suốt như vậy. Bản thân ta cũng như những người khác, một khi
mắc phải sai lầm cần được quan tâm, được thương yêu và giúp đỡ để chuyển hóa,
để thăng hoa trong cuộc sống. Ai đang ở trong trạng thái chao đảo, bất an do
tâm xấu ác hoành hành đều đau khổ và đáng thương như nhau và ai cũng cần trau
sửa và thanh lọc nội tâm.
Chính vì vậy, không có ai là thù cả. Đức
Phật chủ trương rằng, lấy ân trừ oán, oán liền tiêu; lấy oán báo oán, oán chập
chồng. Đây là cách giải quyết vấn đề rất tích cực và ôn hòa trong cuộc sống chứ
không hề tiêu cực và nhu nhược như nhiều người lầm tưởng và gán cho Đạo Phật.
Một khi có quan niệm thiện ác là những hành vi và ý tưởng tồn tại nơi mỗi một
con người, chúng ta không nên định danh người này thiện, kẻ kia ác. Ranh giới
giữa thiện và ác không rạch ròi như trắng với đen và tính chất của nó không ổn
định để có thể định hình định danh một cách dễ dàng. Điều này tạo niềm tin và
thái độ lạc quan nơi người từng cho mình là xấu ác để có cơ hội thay đổi theo
hướng tích cực, đồng thời nhắc nhở mỗi người luôn phòng hộ tâm ý mình mà không
nên chủ quan, vì hôm nay chúng ta có thể tốt, ngày mai có thể khác đi nếu tâm
mình trượt dốc, và ngược lại.
Điều
thứ sáu, một ý nữa cần chia sẻ là Đức Phật là người Thầy dạy chúng ta cần
trân trọng những mối quan hệ trong cuộc sống. Ngài từng nói nhiều lần
rằng, trong nhiều kiếp sống chúng ta đã trải qua, trên đời này, khó có thể tìm
được một người nào chưa từng là cha, mẹ hay bà con thân thuộc của mình. Đức
Phật nói về luân hồi, về nhiều kiếp sống trước để nhắc chúng ta rằng tất cả mọi
người là thân bằng quyến thuộc của ta, là những người ta cần được cư xử đầy
tình thương yêu và trân trọng. Chúng ta trân trọng con người quanh mình và các
mối quan hệ con người vì Đức Phật cũng dạy rằng chúng ta tồn tại đây không hề
độc lập mà sự tồn tại của mình là một mắc xích trong các mối quan hệ với nhiều
người và nhiều yếu tố khác nhau. Trân trọng người khác và môi trường sống là
trân trọng chính bản thân mình. Sống quan tâm lẫn nhau và tôn trọng quyền được
sống, được tồn tại của con người, các sinh vật khác và môi trường mình sống là
quan tâm đến chính mình vậy.
Mỗi người chúng ta, nếu chịu khó nhìn lại
một tí, ai cũng có thể cảm nhận mối tương quan dây chuyền này. Một khi hiểu và
chấp nhận được nguyên tắc này, chúng ta biết quý trọng các mối quan hệ mình có,
biết trân trọng môi trường ta sống và tự thấy mình có trách nhiệm nuôi dưỡng
các mối quan hệ xã hội và bảo vệ môi trường sống vì bản thân mình là một bộ
phận trong cả một hệ thống dây chuyền liên hệ nối kết chung này.
Không làm tổn thương người khác, trước và
trên hết, ta đem lại lợi ích thiết thực cho bản thân mình. Nếu nhìn sâu vào mối
quan hệ tương duyên giữa mình với mọi người và với môi trường, chúng ta có thể
‘sống’ thuận với nguyên tắc tự nhiên “cái này có, cái kia có; cái này sinh, cái
kia sinh và cái này diệt, cái kia diệt” giữa mọi người và vạn vật mà không hề
chướng ngại. Tinh thần bất bạo động và tình thương yêu muôn loài của Đạo Phật
bắt nguồn từ hiểu biết nguyên tắc tương duyên này.
Điều
thứ bảy, một bài học ta cần ghi nhớ là Đức Phật dạy rằng, cuộc sống này luôn thay đổi, mong manh lắm.
Đây là đặc tính của cuộc sống mà chúng ta không dễ cảm nhận một cách sâu sắc
hoặc chỉ chấp nhận trên lý thuyết mà chưa thật sự sống với nguyên lý tự nhiên
này. Khi Đức Phật nói đến cuộc sống ngắn ngủi tạm bợ, phù du, chúng ta đừng vội
gắn nhãn hiệu ‘bi quan’ cho lời dạy này. Cuộc sống có những giới hạn nhất định
và đây là một thực tế, không bi quan cũng chẳng lạc quan. Bi quan hay lạc quan
tùy thuộc vào thái độ và hành xử của chúng ta đối với sự đổi thay, với bản chất
ngắn ngủi vốn như vậy của sự sống.
Nếu biết cuộc sống này không ổn định và
ngắn ngủi, chúng ta ý thức được rằng, quỹ thời gian mình có giới hạn và có thể
chấm dứt không kỳ hạn, để từ đó mình thấy cần làm gì, và không cần làm gì.
Chúng ta không thể trường sanh bất tử để rồi mặc tình sử dụng thời gian phung
phí thế nào cũng được. Biết bản chất mong manh của cuộc sống, chúng ta sẽ có ý
thức quản lý thời gian hợp lý, trân quý những gì mình đang có và khéo nuôi
dưỡng các mối quan hệ với người thân hơn. Chính cuộc sống mong manh, chúng ta
cần thận trọng hơn để không làm tổn thương những người xung quanh. Có khi một
lời xin lỗi chưa kịp nói, một nụ cười chưa kịp mở và một ý niệm tha thứ chưa
kịp thực hiện cũng làm ta áy náy.
Chính cái mong manh này mà ta không chủ
quan ỷ lại, ví như cầm trong tay chiếc bát thủy tinh, ta có ý thức gìn giữ cẩn
trọng hơn là cầm chiếc bát nhôm trên tay. Ý thức những giới hạn nhất định của
thân phận con người trong kiếp sống này, chúng ta sẽ cẩn trọng hơn trong suy
nghĩ và hành động để tránh được nhiều sai lầm và lãng phí.
Còn rất nhiều điều hay trong những lời Phật dạy, còn vô số hạnh lành Đức Phật đã làm để thành công trên con đường chuyển hóa nội tâm và chỉ dạy con đường sáng đó cho người khác mà cả đời chúng ta học vẫn không hết. Trên đây chỉ là một số điều mà người viết thiết nghĩ người học Phật nào cũng đang nỗ lực chuyển hóa trong cuộc sống hằng ngày của mình. Đây là những nguyên tắc sống đẹp mà bằng nỗ lực bản thân, ai cũng có thể áp dụng được. Với quan điểm về con người và cuộc sống như vậy, sự thực hành mang lại cho chúng ta sự chuyển biến tích cực hơn và có nhiều niềm vui hơn cho đời mình. Và quan trọng hơn, áp dụng những nguyên tắc này, chúng ta sẽ dần dần nhận ra ý nghĩa sống qua mối tương quan tương duyên giữa mỗi chúng ta với những người xung quanh cũng như với môi trường mình đang sống. Nhân ngày Phật đản, người viết ôn lại những điều này trong tâm để tự nhắc nhở mình và chia sẻ cùng những người có duyên như một món quà trong ngày hội lớn.