Saturday, February 7, 2015

TRÍ TUỆ VÀ GIÁO DỤC TRONG ĐẠO PHẬT

Thu nhận hiểu biết từ các nguồn tri thức bên ngoài vào để rồi tiêu hóa, biến tấu và sử dụng kiến thức ấy trở lại trong cuộc sống là điều tất cả chúng ta đều làm. Vốn tri thức ấy là tri thức thâu vào, là thứ tri thức ta học để rồi dùng nhằm hiểu cuộc sống, hiểu xã hội và hiểu ở tất cả phương diện khác để giúp ta xoay xở, đương đầu, xử lý các tình huống cuộc sống, để rồi  có kỹ năng và nghệ thuật sống hài hòa, chấp nhận và được chấp nhận trong cuộc sống này với các mối quan hệ xã hội phức tạp. Hiểu biết này là kiến thức hấp thụ từ các nguồn sáng “tri thức” bên ngoài, giống như ánh sáng dịu dàng ta nhận được từ mặt trăng. Mặt trăng vốn không phải là nguồn sáng, theo nghĩa tự bản thân nó có khả năng phát sáng, mà là trạm thu nhận ánh sáng từ nguồn sáng mặt trời để phản chiếu trở lại mà thôi.
Thế nhưng, khả năng của mặt trăng chỉ là trạm thu và phát ánh sáng, còn khả năng con người kỳ diệu hơn, vì ngoài chức năng thu và phát kiến thức, con người còn có chức năng là nguồn tự phát ra ánh sáng trí tuệ, giống như nguồn sáng của mặt trời. Là nguồn sáng thì ánh sáng ấy mới dồi dào, mạnh  mẽ và bền vững vì tính tự chủ của nó, trong khi đó, trạm thu-phát thì hạn chế nhiều thứ do lệ thuộc vào nguồn sáng mà nó thu nhận. Nói như vậy không có nghĩa con người có thể phát sáng trí tuệ trong mọi lúc mọi nơi. Khả năng làm nguồn phát sáng ở con người chỉ có thể phát huy trong những điều kiện nhất định. Hầu hết các tôn giáo đều hướng đến việc tìm hiểu những điều kiện tốt nhất để con người có khả năng phát sáng trí tuệ này.
Trí tuệ từ nguồn sáng này phát ra từ nội tâm của mỗi người. Đây là loại trí tuệ đa năng, đa dụng và có tác dụng nền tảng và xuyên suốt, bền vững đồng hành cùng chủ nhân của nó. Một vai diễn trên sân khấu muốn truyền cảm xúc cho khán thính giả phải biết diễn từ cảm xúc xuất phát từ trong tâm diễn ra. Một mối quan hệ tình người được nuôi dưỡng lâu dài nhờ chất keo dính của sự chân thật và tình cảm chiết xuất từ trong tâm. Ý nghĩa đích thực của cuộc sống tùy thuộc vào khả năng phát sáng và phương cách sử dụng nguồn sáng ấy làm cho cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn. Vấn đề, tất nhiên, là làm thế nào để phát triển nguồn trí tuệ này và mỗi tôn giáo có cách đặc trưng để phát triển nó tùy thuộc vào nhân sinh quan và thế giới quan của tôn giáo đó. Phật giáo gọi sự phát triển  này là con đường của  trí tuệ và quán chiếu, và muốn thành tựu trí tuệ và quán chiếu này cần thiết phải có một nền giáo dục toàn diện về cách chúng ta sống trong cuộc đời.
Giáo dục chỉ có ý nghĩa đối với con người mà không có giá trị gì đối với phần lớn các loài vật. Hầu hết các loài vật, chỉ sau vài tiếng đồng hồ hay vài ngày sinh ra, một cách bản năng, chúng nó có thể tự lo liệu bản thân. Không giống con vật, con người cần một môi trường để được giáo dục, cần phụ thuộc vào cha mẹ và thầy cô giáo trong nhiều năm để sinh tồn và được xã hội hóa. Sự phụ thuộc trong một thời gian dài là đặc tính để định nghĩa về con người; chúng ta trở thành con người đúng nghĩa qua giáo dục hơn là bản năng sinh tồn của nòi giống. Nếu nhìn theo hướng tích cực, chân lý này mô tả bản chất căn bản ở con người là có thể nhận sự giáo dục. Đây là khả năng bẩm sinh tuyệt vời để chúng ta có thể học và thay đổi theo các chiều hướng tốt đẹp. Phật giáo luôn dạy phát huy khả năng này đến mức hoàn hảo nhất để thay đổi toàn triệt con người. Điều này đưa đến khái niệm giáo dục bao quát mọi phương diện trong cuộc sống – cách chúng ta liên hệ với cuộc sống vật chất, cách chúng ta giao tiếp với con người xung quanh mình và xã hội mình đang sống, cách chúng ta xây dựng cuộc sống nội tâm; nó bao gồm giáo dục về các phương diện đạo đức, tri thức, tình cảm và tâm linh.
Phật giáo xem giáo dục, sự tìm kiếm sự hiểu biết qua kinh nghiệm trực tiếp của cá nhân thông qua điều kiện sống con người, là trung tâm của đời sống tâm linh. Phật giáo sử dụng nhiều phương tiện thiện xảo và các cách quán sát cuộc sống từ trí tuệ và kinh nghiệm, việc mà ai cũng có thể làm được, không nhất thiết dành riêng cho đệ tử Phật. Nhờ phương pháp hướng dẫn khoa học này, người của các truyền thống tôn giáo khác hoặc người thật sự không có lấy một truyền thống tôn giáo nào cũng có được lợi ích từ sự thực hành lời Phật dạy thông qua con đường giáo dục. Vốn hiểu biết về sự tồn tại của con người và các quy luật vận hành cuộc sống càng sâu, chúng ta càng có khả năng tự bảo hộ mình, đưa mình ra khỏi sự phân định mù quáng và không cần thiết giữa mình và người với các sự phân loại nhỏ hẹp và giới hạn trên cơ sở xã hội, tộc người và tôn giáo. Thay vì thấy cái khác nhau, riêng lẻ và phân biệt, ta cần hướng đến cái chung của con người, trong đó khả năng giữ tâm thuần tịnh và phát sáng trí tuệ từ nội tâm là một trong những điểm chung ở tất cả con người ta cần phát huy.
 Là con người, chúng ta có khả năng phản chiếu kinh nghiệm của mình và học hỏi từ kinh nghiệm người khác để có thể học cách quán chiếu, phát triển khả năng tự tri và cách làm phát khởi nguồn sáng trí tuệ vi diệu trong tâm mình. Là Phật tử, chúng ta dành trọn đời mình để học cách duy trì tâm thuần tịnh, khơi dậy tâm từ bi làm nền tảng cho sự phát khởi trí tuệ, xem đó là nơi nương tựa thường xuyên cho nội tâm. Chánh niệm, một sự chú tâm trong hiện tại mà một phương pháp rèn luyện khả năng tự tri của mỗi chúng ta. Chúng ta có thể thực hành chánh niệm trên bất cứ phương diện nào trong số năm nhóm thành tố cấu thành nên con người mà ta quen gọi là năm uẩn để sự tự tri trở nên nhạy bén và hoạt dụng hiệu quả. Với sắc uẩn, ta có thể tập cảm nhận sự thay đổi, chuyển biến, vô thường của các thành tố tạo nên cấu trúc cơ thể của mình, cụ thể nhất là chọn hơi thở làm đề tài để theo dõi và trú tâm. Nếu căn cứ trên thọ – các cảm giác, cảm xúc vui buồn hoặc trung tính mà theo dõi, quán chiếu, ta sẽ nhận ra sự thay đổi cũng như cảm nhận tính chất của các cảm thọ này để tôi luyện khả năng tự tri và tự quán chiếu về các đặc tính khách quan như vô thường, vô ngã nơi thân và tâm mình. Chúng ta cũng có thể chọn tưởng – những gì tập hợp thành nhớ chấp, những nhớ giữ về hình tượng, ảnh tượng lên trên tâm làm đối tượng để rèn luyện sự chú tâm và khả năng quán chiếu để hiểu ra bản chất của con người và sự sống. Chọn tập hợp tư cách tạo nghiệp của thân, của miệng và của ý  mà thuật ngữ Phật học gọi là hành làm đối tượng để ta nương vào đó rèn luyện kỹ năng chánh niệm cũng là sự chọn lựa của nhiều người. Nếu nương vào sự nhận thức của mình để theo dõi và trú tâm nhằm tôi luyện sự chú tâm và kỹ năng tự tri cũng như quán chiếu, ta chọn thức làm đối tượng để thực hành. Nếu ta cảm thấy từ tổ hợp nào đó trong số năm thành tố trên mà từ đó, ta dễ dàng cảm nhận được bản chất các quy luật vận hành nơi thân và tâm thì ta chọn để làm đề mục quán chiếu vậy.
 Khi thực hành chánh niệm thường xuyên, thân và tâm ta dần trở nên an tịnh, yên tĩnh, nhu nhuyến và thuần thục. Sự thuần tịnh của tâm là môi trường lý tưởng nhất để nguồn sáng trí tuệ phát sinh và được nuôi dưỡng để duy trì bền vững. Quá trình này giống như người nông dân chuẩn bị đất với sự gia công cày, bừa, nhổ cỏ, làm tơi đất và tưới nước cho đất đủ ẩm để sẵn sàng gieo hạt. Với tâm thuần tịnh, trong sáng, an bình, nội lực trong tâm được gom tụ thành một khối sáng của trí tuệ, trí tuệ phát sinh từ bên trong, chứ không phải do học hỏi, thu nhặt từ bên ngoài vào rồi tái chế đưa vào sử dụng. Trí tuệ này phát khởi từ tâm thức thuần tịnh. Mức độ thuần tịnh tỷ lệ thuận với khả năng phát sáng trí tuệ của tâm và khả năng sử dụng nguồn sáng này để soi sáng bản thân bằng sự tự tri và soi sáng môi trường quanh ta.
Những thử thách thật sự cho mức độ thuần tịnh và khả năng phát sáng trí tuệ của tâm là duy trì sự tỉnh thức ngay giữa cuồng phong của tình cảm – khi ta bị tổn thương, phản bội, giận dữ và sợ hãi. Nếu tâm có sự thuần tịnh, lắng sâu có nghĩa là khả năng duy trì sự bình an tốt, không bị chi phối của các yếu tố bên ngoài. Khả năng này được thể hiện rõ nét khi gặp những tình huống khó khăn, chúng ta vẫn có được sự may mắn là duy trì các nguyên tắc nhất định để có thể chống đỡ, xoay xở và hành xử trên cơ sở hợp lý, khoa học, thực tế và nhân bản.  Như vậy sự thuần tịnh nội tâm là nền tảng để chân giá trị và ý nghĩa cuộc sống phát triển.
Đưa tâm hỗn tạp và lăng xăng như một nồi canh súp đang sôi trên bếp về trạng thái thuần tịnh, trong sáng, an lành để nguồn sáng trí tuệ nảy sinh và phát triển không phải là một điều dễ dàng. Điều này chỉ có thể thành tựu bằng sự nỗ lực không ngừng để thực hành giáo dục trọn đời, một phương pháp huấn luyện cách sống bên trong cũng như bên ngoài, với sự hỗ trợ của lời Phật dạy. Tóm lại, chúng ta thấy rằng, những giáo lý Phật giáo không phải là tín điều để phải tin theo (hay phản đối) mà là công cụ để sử dụng để phục vụ cho mục đích cuộc sống của mình. Chúng ta sử dụng những lời dạy này để biết cách kích hoạt nguồn sáng trí tuệ ấy bừng lên, soi lối cho chúng ta hiểu bản thân mình và kinh nghiệm mình trải qua trong cuộc sống, để hiểu người khác và thế giới chúng ta đang sống. Trên cơ sở đó, đặt trên nền tảng này, chúng ta thiết lập đời sống hạnh phúc đích thực cho bản thân và người khác nhờ vào sự sử dụng khéo léo và hợp lý nguồn trí tuệ tự phát từ nội tâm này.
Một thế giới bình yên và hạnh phúc khi được soi mình trong ánh sáng trí tuệ từ nguồn tâm thuần tịnh của mỗi cá nhân chung sống trong thế giới ấy. Mỗi chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm với hành trình khơi nguồn và tỏa sáng này qua quá trình tự giáo dục, một phương thức giáo dục trọn đời dành cho mỗi cá nhân.