Phóng sanh chim bị phê phán
慈邱育(Từ Khâu Dục), phóng viên thời báo
Đài Bắc.
Ngày
3 tháng 11 năm 2004
Việc làm độc ác: Thói quen phóng sanh chim
là một việc làm tốt. Thế nhưng, việc làm này đã tạo ra ngày càng nhiều những
người hung bạo và thiếu tính người của một bộ phận làm nghề bắt giữ chim.
Người
theo đạo Phật và đạo Lão từ lâu đã có thói quen phóng thích chim chóc và các loài động vật với niềm tin rằng làm như thế sẽ tích lũy được nghiệp tốt. Thế nhưng ở
Đài Loan, các nhà hoạt động tranh đấu quyền động vật vừa phát biểu hôm qua rằng,
hành động này trở thành thương mại hóa và như thế, đã dẫn đến cái chết khổ
không cần thiết của khoảng 600 ngàn con chim mỗi năm.
Trong
hai năm qua, những tình nguyện viên của Hội bảo vệ môi trường và động vật ở Đài
Loan và Hội giáo viên ở Cao Hùng thuộc Trung tâm giáo dục sinh thái đã đến thăm
155 quầy bán chim ở Đài Bắc, Đài Trung và Cao Hùng. Những người bán chim này
nói rằng 60 % số chim họ bán được là do Phật tử mua để phóng sanh vì người Phật
tử tin rằng để các nghiệp xấu được đoạn trừ, họ cần phải phóng sanh. Một cuộc hội
thảo tổ chức tại Đài Bắc hôm qua, có trình bày một tài liệu đã được đăng tải trên
thông tin truyền thông về tội ác của việc bắt giữ chim và đưa về bán cho các cửa
tiệm. Nhiều chim bị phơi nắng đến khô hoặc bị bỏ đói đến chết vì người bắt chim
không kiểm tra lưới thường xuyên. Tài liệu ấy cũng nói rằng chim bị nhử mồi và
bị bẫy bằng một cái lưới lớn. Một khi bị mắc lưới, chim vùng vẫy để thoát thân
nên một số đã chết vì nguyên nhân này. Số chim sống sót phải trải qua một chặng
đường dài trong quá trình vận chuyển đến nơi bán. Thước phim ấy cũng cho thấy
chim bị nhồi nhét chật như nêm cối vào trong các chiếc lồng bình thường rồi được
vận chuyển bằng tàu đến cho khách hàng, thường là những vị trụ trì các tu viện.
Các
nhà hoạt động xã hội cho rằng chim bắt để bán cho người ta phóng sanh gồm có
nhiều loại. Người ta thấy nhiều cửa tiệm có bán chim cu gáy, chim bông lau, chim
ri, chim Nhật Bản mắt trắng, chim sẻ và chim bồ câu. Giá mỗi loại khác nhau từ
10 Đài tệ đến 300 Đài tệ một con. Có loại chim đắt hơn rất nhiều như chiền chiện
hay chim vẹt lớn nhập khẩu, giá từ 1 ngàn đến 6 ngàn Đài tệ một con. Ngay cả
các loại chim quý đang được bảo tồn như chim trĩ thiên hoàng, chim họa mi, chim
vẹt xanh, cũng bị bắt bán với giá cao hơn.
Những
nhà hoạt động xã hội đoán rằng có khoảng 10 % số chim bị bắt thật sự may mắn được
phóng thích bởi những tín đồ tôn giáo. Những người này cũng thường phát tâm
đóng góp tiền cho các nhà tổ chức sự kiện. Cả nước, có khoảng 500 nhóm tín đồ
hay làm những việc như thế. Ông Wu Hung, chủ tịch Hội EAST phát biểu rằng, “chúng
ta không đổ thừa cho các tín đồ mù quáng khi làm việc này, nhưng trách nhiệm là
ở một số người lãnh đạo tôn giáo không chân chánh. Những Phật tử này không ý thức
được rằng phóng sanh theo tín ngưỡng của họ góp phần thúc đẩy hoạt động thương
mại bắt và bán chim”. Theo ông Wu Hung những người không tôn trọng mạng sống của
chim, không có lòng thương cảm động vật và làm những việc như vậy mối nguy hại
tạo nên sự mất cân bằng của môi trường sinh thái quốc gia. Điều này đưa đến
nguy cơ tiềm ẩn về sức khỏe. Ông Wu Hung còn nói rằng “nhiều giống chim khác loài
trộn lẫn vào nhau trong quá trình vận chuyển làm tăng nguy cơ bệnh dịch như cúm
gia cầm”.
Những
nhà bảo vệ chim nói rằng các loài chim hoang dã, một khi bị bắt nhốt, dễ chết
hơn chim cảnh được nuôi vì chim hoang dã rất nhát, khi bị bắt, do quá sợ mà
không chịu ăn uống. Đồng thời, ngày hôm qua đây, ông Yuan, phía lập pháp, đã
thông qua bản chỉnh sửa điều luật thứ 10 của Luật bảo vệ động vật với chi tiết
mới thêm vào là không được tự do bắt giữ động vật.
"Mối
quan hệ giữa cung và cầu đã tạo nên thương mại giữa những người bắt chim không
lương thiện, người môi giới và người mua”. Lu Po-chi, luật sư đảng dân chủ tiến
bộ, người khởi đầu dự luật, hôm qua phát biểu như vậy. Ông Lu nói ông sẽ sớm
cùng với những nhà lập pháp khác chỉnh sửa các điều luật để ngăn chặn những việc
làm tạo điều kiện cho nghề kinh doanh độc ác này phát sinh.
Lời tác giả: Điều này không có nghĩa rằng
chúng ta không nên bảo vệ và phóng thích động vật. Tuy nhiên, chúng ta nên hành
động thận trọng theo một cách thức phù hợp có trí tuệ và từ bi.
Trị liệu liên quan đến các kiếp sống quá khứ
Một
trong những khám phá vĩ đại nhất của đức Phật là Ngài chủ trương có tái sinh qua
nhiều kiếp sống. Giáo sư Ian Stevenson, một nhà khoa học đã dành ngót ba thập kỷ
qua để nghiên cứu và tích lũy nhiều chứng cứ ủng hộ sự khám phá của đức Phật. Nhiều
nhà tâm lý trị liệu ngày nay đã giúp nhiều bệnh nhân theo cách nhìn toàn diện,
với quan niệm con người không chỉ có một kiếp sống này. Một trong số những người
nổi bật nhất nghiên cứu về lãnh vực này là tiến sĩ Brian Weiss, nguyên chủ tịch
khoa Tâm thần học ở trung tâm y khoa Sinai tại Miami. Ông đã thực hành trị liệu
trên cơ sở nhìn lui về các kiếp sống trước để giúp bệnh nhân chữa lành bệnh về
thân và bệnh về tâm.
Với
cách giúp cho các bệnh nhân nhớ lại các kiếp sống trước bằng phép thôi miên,
ông đã làm cho bệnh nhân có thể giải tỏa những mâu thuẫn trong kiếp sống quá khứ
vẫn còn tồn tại đến bây giờ. Câu chuyện sau đây trích từ cuốn sách “Xuyên dòng
thời gian để trị bệnh”, một cuốn sách đề cập đến nhiều trường hợp, bệnh nhân có
khả năng chữa lành bệnh nhờ vào trị liệu nhớ lại các kiếp sống quá khứ. Một lần,
có một người phụ nữ bị chứng ho mãn tính mà không tìm được nguyên nhân và thuốc
gì chữa cũng không khỏi. Trong y khoa, một khi đã áp dụng tất cả các phương thức
chữa trị đặc biệt mà các triệu chứng bệnh vẫn không thuyên giảm thì bác sĩ sẽ
khuyên bạn đến chuyên gia tâm thần học để xác định nguyên nhân tâm lý của các
triệu chứng bệnh. Trường hợp này tương tự như vậy. Khi bệnh nhân được hướng dẫn
để có thể nhìn lui lại thời thơ ấu và cả khi mới sinh ra, cô ta không thấy gì ảnh
hưởng đến những triệu chứng cô đang chịu đựng cả. Một hôm, bác sĩ Brian quá mệt
mỏi, bèn bảo cô ta “hãy nhìn lui về nguồn gốc của bệnh cô xem sao.” Thế là người
phụ nữ ấy nhìn lui về 4 ngàn năm trước. Cô ta thấy trong một kiếp sống nọ, cô
ta bị đâm vào cổ họng và chết. Sau khi nhớ lại từ trong ký ức như vậy, bệnh cô
trở nên thuyên giảm dần. Bằng cách nhớ lui lại các kiếp sống trước, cô ta đã
hoàn toàn bình phục từ căn bệnh của mình.
Nước mắt chúng ta trong vòng luân hồi
nhiều như nước biển (Đức Phật).
Tám nguyên nhân gây bệnh
(Tương
ưng bộ kinh)
♥ Mật
♥ Đờm
dãi
♥Gió
♥ Sự
tích tụ thể dịch trong cơ thể
♥ Thời
tiết thay đổi
♥ Tâm
lý sang chấn
♥ Bị
tấn công bất ngờ từ bên ngoài
♥ Nghiệp
Một điều quan trọng cần ghi nhớ là không phải
tất cả các loại bệnh đều do nghiệp. Có bốn quy luật tự nhiên khác (Niyamas)
tương tác với quy luật về nghiệp gây nên bệnh:
1. Utu Niyama (trật tự bên ngoài cơ thể), ví dụ
hiện tượng mưa gió thay đổi theo mùa.
2.
Bija Niyama (trật tự bên trong cơ thể) ví dụ các học thuyết khoa học về tế bào
và gien
3.
Dharma Niyama (trật tự các nguyên tắc) ví dụ luật vạn vật hấp dẫn và các định
luật vật lý khác.
4.
Citta Niyama (trật tự của tâm hay luật về phương diện tâm thần) ví dụ sự vận
hành tâm thức, thần giao cách cảm, khả năng dự cảm và thần thông.
Một
điều quan trọng không kém cần ghi nhớ rằng đây là các luật tự nhiên chứ không
có ai, Thượng đế chẳng hạn, là người sáng tạo ra các luật này. Theo quan điểm của
Phật giáo, bệnh tật phát sinh không có sự can thiệp của Thượng đế. Bệnh phát
sinh do một số điều kiện. Nó chỉ khởi lên khi các điều kiện này chín muồi. Do
đó, chúng ta có thể ngăn ngừa bệnh bằng cách can thiệp vào một số điều kiện vốn
là nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ, bỏ hút thuốc.