“Tôi tin rằng mỗi người
đều không có sự lựa chọn nào khác là đối mặt với những khó khăn, bức bách (saṃvega)
của riêng mình; chúng ta phải tìm ra lối thoát (pasada) cho chính mình vậy” (Thanissaro).
Câu nói “đời là bể khổ” trở nên quen thuộc với
tất cả chúng ta. Những điều không như ý, bất toàn là hiện thân của cái khổ mà
ta gặp hầu như mỗi ngày. Như vậy, khổ là một chất liệu không thể thiếu làm nên
cuộc sống đầy sắc màu sinh động này và chắc chắn là ta không thể nào tránh né
chúng. Chính vì vậy, trọng tâm bài pháp đầu tiên đức Phật chia sẻ với năm người
bạn đồng tu là khổ và con đường diệt khổ. Điều đầu tiên trên tiến trình này là
nhận rõ diện mạo của khổ đau. Nếu không cảm nhận được cái khổ đang thống thiết bức
bách mình, sẽ không có ai tìm cách để thoát khổ. Đây là một sự thật được đức
Phật chứng minh hùng hồn qua cuộc từ bỏ vĩ đại của Ngài: từ bỏ những gì cao quý
nhất của trần gian là cung vàng điện ngọc để đi tìm con đường thoát khỏi những
giới hạn giam hãm kiếp người. Thái tử nhận ra cái khổ ở các phương diện bức
bách, tù hãm, căng thẳng, bất an thường trực của già, bệnh và chết đè nặng lên
kiếp sống nhân sinh. Thế rồi, hoàn toàn đối lập, hình ảnh một người đạo sĩ
thanh thoát dạo trước cổng thành như một tia nắng lóe lên trên bầu trời u ám
mây đen đã vực dậy tâm lý nặng nề ấy, thắp sáng động lực ra đi để tìm cách cởi
bỏ những ràng buộc nơi thái tử Siddhattha.
Sự ra đi lịch sử ấy, hành trình tìm đạo và thành đạo vô tiền khoáng hậu của đức
Phật bắt đầu từ chuỗi tâm lý thấy khổ rồi vượt khổ, nỗ lực, tinh cần đúng mức
để đi đến thành công. Trên cơ sở nhận
thức này, toàn bộ những lời dạy trong sự nghiệp hoằng pháp của Ngài đặt trên
trục xoay của giáo lý về khổ và con đường diệt khổ.
Từ trải nghiệm thực tế
đó, đức Phật đã xây dựng một hệ thống giáo lý vô cùng đặc sắc, trở thành
“thương hiệu” của đạo Phật, đó là giáo lý Tứ diệu đế – giáo lý về khổ và sự diệt khổ. Đây là giáo lý nền tảng
giàu giá trị nhân văn, đem lại sự bình an, hạnh phúc bằng sự nỗ lực tự thân. Một
sự thật không thể phủ nhận rằng, giáo lý Tứ diệu đế là một sự đóng góp tuyệt vời của đức Phật với cuộc đời
này. Mọi sự cởi trói chỉ có thể thực hiện khi nào người bị trói hiểu rõ “mình
đang bị trói buộc” và cảm thấy vô cùng ngột ngạt, bức bách tột cùng với sự trói
buộc này đến mức bằng mọi giá, phải tìm cách vượt thoát.
Chạm mặt khổ đau
Đau khổ là chất liệu làm nên cuộc sống. Không khổ
sao được khi ý chí, nguyện vọng và mọi nỗ lực của con người trở nên bé nhỏ và
bất lực trước sự chi phối của già, bệnh, chết và những điều trái ý nghịch lòng
cứ tác động đến thân phận của một kiếp người. Điều quan trọng là ý thức rõ
những bức bách, nặng nề, căng thẳng, bất an, hụt hẫng, thất vọng và chán nản,
khi chạm mặt với già, bệnh, chết và những điều không như ý trong cuộc sống mà
con người không thể can thiệp. Khi ấy, với người biết suy tư, tâm lý hụt hẫng,
chông chênh, chấn động khởi lên trong tâm vì thấy kiếp người thật vô nghĩa. Tâm
lý này được gọi là saṃvega.
Tỳ kheo Thanissaro có một bài viết với tựa đề “Lẽ thật của con tim” khá sâu sắc
bàn về chuỗi tâm lý này và chuỗi tâm lý vực dậy để tìm giải pháp vượt thoát gọi
là Pasada (sẽ đề cập ở phần sau của bài viết)..
Saṃvega là một từ khó dịch. Với những từ bao hàm nhiều nghĩa như từ saṃvega, khi không tìm được từ tiếng
Việt tương đương (cả tiếng Anh, thầy Thanissaro nói rằng cũng không tìm được từ
nào tương đương đủ để chuyển tải hết nghĩa của từ này), thì tốt hơn ta giữ
nguyên từ gốc. Saṃvega bao hàm nhiều mức độ cảm xúc, ít nhất
ở ba quá trình tâm lý tiếp nối nhau. Thứ
nhất, đó là cảm giác đè nặng do choáng sốc, vỡ mộng và chán ngán khi nhận
ra sự phù phiếm, vô nghĩa của đời sống nhân sinh. Cảm giác ngột ngạt do bị sốc,
xuống tinh thần, và muốn xa lánh vì nhận ra sự phù phiếm và vô nghĩa của cuộc
sống nếu cứ để thời gian trôi qua một đời bình thường nhạt nhòa như thế. Thứ hai, chuỗi tâm lý tiếp theo
là cảm giác tội lỗi khi thấy mình tự thỏa mãn và ngu si, khờ dại khi cho phép
mình sống một cách mù quáng như thế. Cuối
cùng, chuỗi tâm lý tiếp theo xuất hiện, đó là cảm giác bất an lo lắng làm
thế nào để nhanh tìm ra lối thoát khỏi cuộc sống xoay vần vô nghĩa này, cảm
giác bồn chồn khắc khoải do ý thức tính
cấp bách của việc tìm
cách thoát ra khỏi cái vòng quẩn quanh vô nghĩa này.
Đức Phật đã trải nghiệm đầy đủ các cung bậc cảm
xúc của saṃvega như thế. Sau khi dạo bốn cửa thành, thái
tử Siddhattha trở về hoàng cung với tâm lý saṃvega oằn nặng tâm tư. Khi gặp một người
già, một người bệnh và một người chết, tâm lý thái tử Siddhattha nặng nề, choáng sốc, bất an, căng
thẳng để rồi Ngài luôn suy tư, trăn trở về cuộc sống vô nghĩa của một kiếp
người. Phải chăng sống chỉ để trải qua các giai đoạn thay đổi để rồi kết thúc
bằng cái chết? Dù sống trong cung vàng điện ngọc, như bao con người khác, cơ
thể sinh học Ngài cũng sẽ trải qua các giai đoạn biến chuyển như thế. Từ đó,
thái tử thấy cần phải tìm lối thoát ra khỏi ngục vàng. Theo sự mô tả trong kinh
Thánh cầu (Trung bộ kinh số 26), khi chạm mặt với ba sự thật
không thể thay đổi của cuộc đời là già, bệnh và chết, thái tử Siddhattha
trầm tư về thân phận của con người và trải qua các cung bậc cảm xúc của saṃvega để rồi chuỗi tâm lý này trở thành tác
nhân kích thích sự ra đi vĩ đại của Ngài.
Quyết tâm vượt thoát khổ đau
Pasada là chuỗi cảm xúc phát
triển tiếp theo sau nhằm vực dậy tâm lý trầm uất, buồn nản và cảm giác vô vị
do saṃvega đem lại.
Cảm xúc của thái tử Siddhattha khi gặp vị sa-môn du hành ngoài cung
điện, một dáng đi ung dung từng bước thảnh thơi, trông rất thanh thoát, bình an
đã đánh động tâm thức Ngài. Tâm trạng nặng trĩu khi thấu hiểu những bức bách,
bất lực trước sự chi phối của già, bệnh và chết để rồi khao khát tìm đường
thoát khỏi các tâm lý tiêu cực đè nặng ấy lại trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Như một đòn bẩy có tác dụng kích hoạt, nâng đỡ tâm thức giúp Ngài lóe lên tia
sáng, tin chắc sẽ có con đường thoát khỏi cảm giác saṃvega này, vượt lên trên sự chi phối của
già, bệnh và chết, chứ không phải ngõ cụt bế tắc. Cảm xúc này là pasada, thường được dịch
là ‘niềm tin trong sáng’ (còn gọi ‘niềm tin thanh tịnh’, ‘tâm tịnh tín’), thế
nhưng, dịch như thế cho tạm hiểu chứ cụm từ ấy vẫn không chuyển tải trọn ý của
từ này. Khi bắt đầu có niềm tin khởi lên từ trong nặng nề và trống rỗng là lúc
tâm lý pasada kịp thời nâng đỡ tâm lý saṃvega, chuyển hóa các tâm lý
tiêu cực để hóa giải nỗi bức bách trong tâm. Pasada là cảm xúc giữ cho cảm giác saṃvega không rơi xuống tận đáy của sự
bế tắc và biến thành tuyệt vọng. Thái tử Siddhattha đã ý thức rõ tình
trạng hiểm nguy của thân phận con người, và ý thức về một con đường thoát khỏi
tâm lý đè nặng do già, bệnh, chết đem lại và tin tưởng có một con đường đưa đến
thành công là cơ sở để Ngài tìm đạo, tu đạo, thành đạo và hành đạo.
Cũng giống như saṃvega,
tâm lý pasada có ba chuỗi tâm lý nối tiếp nhau. Thứ nhất, tâm lý hướng đến một đời sống cao quý thay vì bằng lòng với cuộc sống phù du
tạm bợ và vô nghĩa xoay vần quanh sự hưởng thụ vật chất thấp kém ta đang hụp
lặn trong dòng sống ấy để rồi chết trong vô nghĩa. Đây là khởi điểm cho mọi sự
thay đổi tích cực. Có hai hướng cho người đang ngụp lặn trong khổ đau: hoặc là
vượt thoát để ra khỏi (tích cực và tươi sáng), hoặc cam phận để bị nhấn chìm
trong khổ đau ấy (tiêu cực và bế tắc). Người bị vô minh bao phủ sẽ không có nhu
cầu ra khỏi dòng khổ, hoặc không tìm được hướng ra nên cái kết đắng cay cho họ
là mãi trầm luân trong sanh tử luân hồi. Người như thế thì tâm lý pasada không đủ mạnh để hướng tâm đến một
đời sống cao quý. Một khi pasada phát triển mạnh, hành giả sẽ thấy:
Cười gì, hân hoan gì,
Khi đời mãi bị thiêu?
Bị tối tăm bao trùm,
Sao không tìm ngọn đèn? (Pháp cú câu 146)
Ý nghĩa thứ hai của từ pasada là tin vào bản chất thiện lành vốn có
của mỗi người, dành trọn tâm ý hướng về lối sống đầy từ bi và trí tuệ để
mong tìm ra một phải pháp thoát khỏi cảnh mê mờ, tối tăm trước đó. Điều này có
nghĩa rằng, chúng ta tin vào tiềm năng hướng đến một chân trời tươi sáng của
mình và phát huy nó, làm thay đổi cuộc đời mình một cách ngoạn mục để thoát
khỏi cảnh khổ đau phải chịu đựng trong một thời gian dài. Chính đức Phật là
người tiên phong và thành công trong quá trình kích hoạt các hạt giống thiện
lành trong tâm thức để cuối cùng, trang bị cho mình đủ dũng lực để vượt thoát
sự chi phối của già, bệnh, chết. Ý nghĩa cuối
cùng của pasada là tin vào sự nỗ lực đúng cách của bản
thân sẽ giúp chúng ta tìm
được con đường để thoát khỏi sự bức bách, nhiệt não và bất an. Chuỗi tâm lý này
là giai đoạn phát triển tiếp theo của chuỗi tâm lý saṃvega. Sự thành công của đức
Phật trong quá trình nhận ra bản chất cuộc sống, tìm đạo, tu đạo và thành đạo
là một điển hình sinh động cho sự tự thân vận động trong quá trình tu chứng. Sự
nỗ lực đúng cách của mỗi cá nhân được đức Phật khuyến khích, nhắc nhở, bằng
những cách khác nhau và ở các mức độ khác nhau trong tất cả các bài pháp.
Trên cơ sở các chuỗi tâm lý saṃvega và pasada, đức Phật luôn chánh
niệm tỉnh giác về khổ đau
và con đường thoát khổ. Ngài dạy “Thời
gian lặng lẽ trôi, không luận ngày hay đêm, già và chết đang đến gần. Nếu ai sợ
hãi già và chết thì hãy sớm tạo các công đức lành, bỏ đi vật chất thế gian và
hướng đến nếp sống an tịnh viễn ly” (Tương ưng bộ kinh, chương I,
phẩm I, kinh Đưa đến đoạn tận).
Hai chuỗi tâm lý saṃvega và pasada làm động cơ ban đầu và là nguồn năng
lượng nuôi dưỡng ý chí và nghị lực cần thiết cho sự thành tựu quả vị giác ngộ
của đức Phật. Với saṃvega,
Ngài không cam phận ngồi đó giao nộp mình cho già chết, không tránh né để thọ
hưởng vật chất thế gian trong cung vàng điện ngọc. Với pasada, Ngài hướng đến tìm con
đường để thoát khỏi già chết, để không bị vật chất thế gian ràng buộc với niềm
tin vững chắc vào một nếp sống thanh cao, tâm giải thoát và sự nỗ lực không
ngừng cho đến khi thành tựu. Đây là cơ sở để đức Phật nhận thức sâu sắc, thấu
triệt bản chất của bốn chân lý cao thượng (Tứ diệu đế) và giảng dạy giáo lý ấy
cho những người có duyên.
Khổ của già, bệnh, chết kích hoạt tâm lý vượt
khổ: Từ saṃvega đến pasada
Có thể nói tuyên ngôn hoằng pháp
của đức Phật được gói gọn trong lời dạy mang tính kinh điển rằng “Xưa [từ bài kinh đầu tiên giảng cho năm anh em Kiều Trần Như] cũng như nay, này các Tỳ kheo, Như Lai chỉ nói về khổ và sự diệt khổ” (Kinh
ví dụ con rắn, Trung bộ kinh, số 22). Với sự chuyển biến tâm lý qua
hai chuỗi saṃvega và pasada,
rõ ràng là việc chỉ rõ và nhấn mạnh cái khổ là điều cần thiết để đánh động tâm
lý, kích hoạt ý chí mong muốn vượt thoát và tìm đường vượt thoát, từ đó nỗ lực
đúng cách và đúng mức để đạt đến đích. Nếu nhận thức đầy đủ và toàn diện vấn
đề, thật là phiến diện và thiếu cơ sở khi nói đạo Phật bi quan chỉ vì đức Phật
nói về khổ được thể hiện qua tướng già, bệnh và chết. Thật ra, đây là một sự
thật cần thiết làm tiền đề cho một giải pháp tích cực và lạc quan. Nhận thức
được bản chất của khổ đau, của già bệnh và chết đang mỗi lúc một gần là điểm
nhấn cần thiết để tạo nên sự chấn động tâm thức, nhờ vậy mới có thể tìm phương
hướng ra khỏi sự bức bách ấy:
Với gậy người chăn bò,
Lùa bò ra bãi cỏ;
Cũng vậy, già và chết,
Lùa người đến mạng chung (Pháp cú câu 135).
Bản chất về khổ đế được
đức Phật nhấn mạnh trong thời Pháp đầu tiên sau khi Ngài thành đạo và giảng cho
năm anh em Kiều Trần Như, được ghi lại trong bài kinh “Chuyển pháp luân” như
sau: “Sanh là khổ, già
là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là
khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ”
(Tương ưng bộ kinh, tập V, chương XII, phẩm 2, kinh Chuyển pháp luân).
Ở một bài kinh khác, đức Phật dùng hình tượng
sinh động của các hòn núi khổng lồ đang lăn dần về phía mình chỉ cho sự già và
chết đang mỗi lúc đến gần chúng ta hơn cốt
để đánh thức tâm thức chúng ta. Ngài nói, ví như các hòn núi từ bốn phương
đông, tây, nam, bắc đang lăn dần về phía chúng ta, trên đường lăn, nó cuốn
phăng, đè bẹp và nghiền nát mọi thứ, các hòn núi đó là già và chết. Để không
quá trễ, trước khi bị chúng nghiền nát, chúng ta hãy sống đúng pháp, sống chơn
chánh, làm các hạnh lành, tạo các công đức (Tương
ưng bộ kinh, tập I, chương III, phẩm III, kinh Ví dụ hòn núi).
Chúng ta đang già đi trong từng tích tắc thời
gian, nhưng sẽ không biết được cái chết đến với mình khi nào. Vì lẽ đó, một
người thực hành pháp nghiêm túc sẽ giật mình vì điều này và sống trọn vẹn với
từng sát na trong hiện tại dạt dào ý nghĩa, không truy tìm quá khứ đã qua,
không mơ tưởng tương lai chưa đến. Trong bài kinh Nhất dạ hiền giả (Trung
bộ kinh, số 131), đức Phật dạy rằng “Quá khứ đã qua rồi, không nên
truy tìm. Tương lai thì chưa đến, không ước vọng. Chỉ có hiện tại nhiệm mầu,
nên dốc tâm tu tập ngày hôm nay. Không ai biết được khi nào thần chết đế. Cứ
nhiệt tâm thực hành pháp suốt đêm ngày không biết mệt mỏi như vậy, hành giả
xứng đáng được gọi bậc Nhứt dạ Hiền, an tịnh, trầm lặng”.
Chỉ khi nào tâm chúng ta bị dao động do thấy uy
lực lớn của già và chết, còn mình thì hoàn toàn bất lực không can thiệp được
gì, chúng ta mới thấy có ba việc cấp thiết cần phải làm trước khi thần chết
đến: “sử dùng thời gian của mình để chấp hành tăng thượng giới học, chấp
hành tăng thượng tâm học, chấp hành tăng thượng tuệ học. Nhờ vậy, tâm được giải
thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ trong hiện tại cũng như tương lai” (Tăng chi bộ kinh, chương
III, phẩm X, kinh số 91: Cấp thiết).
Sống ở đời, những điều không tránh khỏi tạo nên
nỗi sợ hãi và bất an thường trực. Do đó, cần phải tận dụng thời gian và chuyển
nguồn năng lượng sợ hãi ấy vào những việc làm có lợi ích cho cuộc sống của mình
trở nên có giá trị trong hiện tại và cả ở tương lai. Cũng ngần ấy thời gian
trong ngày, nếu không làm việc có ích, ắt ta làm việc vô ích. Cũng ngần ấy thời
gian trong cuộc sống, nếu không thể sống với tâm an lạc, thì phiền não, khổ đau
sẽ choán hết tâm trí và lấy đi trọn vẹn thời gian sống. Bằng sự trải nghiệm bản
thân, đức Phật luôn khuyến tấn các đệ tử: “Hãy đứng dậy, hãy ngồi dậy, đừng
ham ngủ, nếu không, sẽ trúng mũi tên phiền lụy. Hãy đứng dậy, hãy ngồi dậy, hãy
kiên trì học tập, đạt cho được an tịnh, đừng để cho thần chết, biết người là
phóng dật, sẽ mê hoặc, chinh phục người. Hãy vượt ái dục này, chớ để thời khắc
qua. Khi thời khắc đã qua, bị sầu khổ địa ngục” (Kinh tập, câu
331-333).
Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, do nguyên nhân gì vẫn
còn là ẩn số đối với chúng ta. Nghĩ đến điều này chỉ có một con đường duy nhất
cho những ai quyết tâm sống một đời không uổng phí: siêng năng, phấn đấu không
ngừng nghỉ, trọn ngày trọn đêm trên con đường hành trì pháp. Đức Phật dạy cần
quán sát thấy rõ năm nguyên nhân đưa đến cái chết không biết trước này, cũng đã
quá đủ để một vị tỳ kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần để
chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để
chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. “Khi ta sống một mình
trong rừng, rắn, bò cạp, rít có thể cắn ta chết. Khi ta sống một mình trong
rừng, ta có thể vấp ngã và té xuống, do ăn uống ta có thể mắc bệnh mà chết.
Sống một mình trong rừng, ta chung sống với các loài thú nguy hiểm, như sư tử,
cọp, báo, gấu, dã can và bị chúng cắn mà chết. Trong khi ta sống một mình trong
rừng, ta chung sống với các loài ăn trộm, ăn cắp đã hành nghề, chúng có thể
đoạt mạng sống của ta. Ở trong rừng có những loài phi nhân nguy hiểm, chúng có
thể đoạt mạng sống của ta” (Tăng chi bộ kinh, chương V, phẩm VIII,
kinh số 77).
Một khi ý thức được già,
bệnh và chết đang đến mỗi lúc một gần hơn, hành giả tận dụng thời gian và điều
kiện đang có để tu học là điều cần thiết. Đức Phật ân cần khuyên nhắc, “Hãy siêng năng tinh tấn khi còn
trẻ và chưa bị già chinh phục, khi còn khỏe mà chưa bị bệnh chinh phục, khi no
đủ mà chưa bị đói kém, mất mùa chinh phục, khi loài người sống với nhau thuận
hòa, hoan hỷ với nhau, không cãi lộn nhau mà không phải lúc loạn lạc, khi chúng
tăng hòa hợp, cùng nhau hoan hỷ, không tranh luận nhau, sống thoải mái cùng
chung một lời dạy chứ không chia rẽ” (Tăng chi bộ kinh, chương V, phẩm VIII, kinh số
78).
Tâm lý thường tình của
con người là sống với nhiều dự tính như thể ta sống mãi với thế gian này! Trong
tâm thế đó, nhiều người nghĩ mình cứ trẻ hoài và khỏe mãi, còn già, bệnh và
chết nếu có đến thì với người khác, mà chưa đến với mình. Nếu có đến với mình
chăng, thì còn lâu lắm vì hiện tại, ta còn đang thừa trẻ và dư khỏe. Chỉ khi
nào hiểu rõ ta thật sự yếu đuối và vô dụng trước vô thường, chúng ta mới thấu
hiểu lời Phật dạy rằng, khi thấy rõ con người không thể vượt qua già, bệnh,
chết, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn sự
kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn, sự kiêu mạn
của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn (Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm IV, kinh
số 38). Dứt kiêu mạn về tuổi trẻ và sức khỏe mới đặt mình vào quỹ đạo
thực hành pháp và sống trọn vẹn với pháp.
Thay lời kết
Sau khi thành tựu đạo quả, bằng kinh nghiệm bản
thân, đức Phật dốc tâm dạy cho các đệ tử phải biết quán chiếu những nỗi khổ của
già, bệnh và chết mà con người đang gánh chịu, không có lối thoát, không có
quyền chọn lựa. Khi biết rõ không thể thay đổi hiện tượng khách quan này, đức
Phật dạy chúng ta phải có sự thay đổi trong nhận thức và thái độ để giải thoát
tâm ra khỏi sự ràng buộc, bức bách này. Tâm vững chãi, an tịnh trong thiền định
có khả năng làm chủ tâm ý, làm chủ dòng cảm xúc để không bị các pháp bên ngoài
chi phối, là cơ sở để tự cởi trói mà thuật ngữ nhà Phật gọi là “giải thoát”.
Tuy nhiên, mức độ dao động của tâm và khả năng
kích thích tâm để có thể thấy ra vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề còn tùy
thuộc vào mức độ nhận thức, giác ngộ và nỗ lực của mỗi cá nhân. Trong Tăng chi bộ kinh, đức Phật mô tả về bốn
hạng người với bốn mức độ cần thiết khiến tâm dao động và được kích hoạt để tìm
đường vượt thoát khổ đau. Hạng người thứ nhất, chỉ nghe người khác bị bệnh, già
hoặc chết, tâm người ấy đủ bị dao động và kích thích rồi. Hạng người thứ hai cần phải trực
tiếp thấy tận mắt các hiện tướng ấy mới sợ hãi, tâm mới dao động và bị kích
động. Hạng người thứ ba là khi người thân trải qua các cảnh già, bệnh và chết
thì mới tỉnh ngộ, tâm dao động và bị kích động và hạng người thứ tư, khi chính
bản thân họ trực tiếp trải nghiệm đau đớn, khổ sở của già, bệnh và cận kề cái
chết thì mới hoảng hốt, tâm dao động và bị kích động (Tăng chi bộ kinh, chương
IV, phẩm XII, kinh số 113: Gậy thúc ngựa). Chỉ khi nào duyên bên ngoài
tác động đủ mạnh để tâm thức bị kích động thì chúng ta mới có động cơ để tinh
cần trên con đường hành trì giáo pháp, chuyển hóa nội tâm.
Thật ra, chúng ta không có đủ thời gian, năng
lượng và cơ hội để đem thân mình ra trải nghiệm mọi thứ trên cuộc đời rồi mới
có được bài học và để tâm thức được kích hoạt. Do đó, chúng ta cần rút kinh
nghiệm thông qua sự trải nghiệm của người khác. Nếu chỉ cần thấy già, bệnh và
chết là “những thiên sứ” (Kinh Thiên sứ, Trung bộ kinh số 130)
mang thông điệp vô thường đến, ta dốc sức tinh cần, tinh tấn trên con đường tu
tập thì sẽ được nhiều lợi ích và kết quả ngay trong hiện tại. Được như vậy, ta
không phải làm những phép thử và trả giá đắt, không phải đi lòng vòng mà rút
ngắn được thời gian. Rút thời gian rong rêu trong một kiếp cũng đồng nghĩa với
việc rút ngắn vòng luân hồi sanh tử và đây là mục đích của mỗi người học pháp
và hành pháp vậy.
Thấy bị trói, cảm nhận sự bức bách, bất an vì bị
giam hãm trói buộc mới nghĩ đến việc tìm cách cởi trói. Thấy khổ rồi mới có thể
vượt khổ. Càng học pháp, càng chiêm nghiệm sự vận hành các pháp trong chánh
niệm, chúng ta càng nhạy bén với các hiện tướng già, bệnh, chết thì càng sớm
tỉnh ngộ, càng có cơ hội để sống một cuộc đời nhiều ý nghĩa trên lộ trình tu
tập và giải thoát. Con đường tu tập bắt đầu với cảm xúc saṃvega rồi được nuôi dưỡng với cảm xúc pasada rồi được thường xuyên phát triển chuỗi
tâm lý phức hợp này trong sự cân đối giữa từ bi và trí tuệ để đi đến cứu cánh
giải thoát. Sự thể nhập và hòa quyện giữa trí tuệ và từ bi có thể đạt được rốt
ráo, đưa hành giả thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa này và giải thoát ra khỏi sự
giam hãm của vòng luân hồi vô tận nhờ vào sự phát triển của chuỗi tâm lý saṃvega và pasada.