Biết ơn, tiếng Pāli là kataññutā và thường đi đôi với từ katavedi.
Kataññutā nghĩa là khởi tâm biết ơn khi mình có được lợi ích từ việc thọ
nhận vật gì hay sự tử tế nào từ người khác, katavedi nghĩa là thể hiện
sự biết ơn đó qua lời nói hay hành động. Kataññutā khi đứng một mình bao
hàm cả nghĩa của từ katavedi. Biết ơn, tiếng Anh là gratitude, xuất phát từ gốc La-tinh là gratia, nghĩa là ơn huệ,
biết ơn. Theo Pruyser (1976),
tất cả những từ xuất phát từ gốc gratia đều có nghĩa là “phải làm tất cả mọi điều
với lòng tốt, tâm lượng rộng rãi, như là một món quà, cao đẹp trong việc cho và
nhận một cái gì đó một cách không vụ lợi” (tr. 69). Emmons và Shelton (2002) định nghĩa biết ơn
là “cảm giác kỳ diệu, cảm giác mang
ơn và ghi nhận giá trị cuộc sống” (tr.
460). Trên phương diện đạo đức, biết ơn là cơ sở để hình thành
và nuôi dưỡng các tâm niệm lành, các hành động thiện và những suy nghĩ tích cực
trên con đường hướng thiện được cụ thể hóa qua các nội dung sau:
Biết ơn giúp chúng ta đối xử tốt với mọi người
Trong
Phật giáo, biết ơn là khái niệm dùng để chỉ cảm giác mang ơn và có ý muốn đền
ơn khi chúng ta thọ nhận một hành vi tốt
từ một người nào đó. Tachibana giải thích rằng, hình thức
đền ơn căn bản và quan trọng nhất liên hệ đến việc chu toàn bổn phận của người
con đối với cha mẹ; trái lại, bất hiếu với cha mẹ là một trong những tội ác lớn
nhất của con người (tr. 235). Do đó, người biết ơn là người thực hiện hành vi đền
ơn với tất cả như một người con làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, hay ít ra là
xem tất cả như người thân của mình. Cách đền ơn toàn tâm toàn ý như vậy đáng được
thực hành và nhân rộng trong cộng đồng xã hội. Mỗi người đều nên khởi tâm biết
ơn người khác như một bổn phận báo đền công ơn thọ nhận trong cuộc sống. Do đó,
trong các mối quan hệ xã hội, quá trình cho-nhận được thiết lập và thường xuyên
diễn ra thì sự thương yêu, tôn trọng và sẵn lòng làm tất cả những gì tốt đẹp cho
người khác là việc làm tất nhiên của những con người biết suy nghĩ và quán
chiếu.
Cuộc
sống là một mạng lưới mà mỗi người là một mắc xích. Do vậy, chúng ta thọ ơn
không chỉ với những người thân hay những người mình trực tiếp có được lợi ích về
vật chất hay phi vật chất. Trong hàng ngàn các mối quan hệ chằng chịt và phức tạp,
trực tiếp cũng như gián tiếp, chúng ta thọ ơn ngay cả những người xa xôi mà
chúng ta chưa hề quen biết. Chúng ta không chỉ thọ ơn những người cùng thời đại
với mình mà còn chịu ơn những người của bao thế hệ trước nữa. Theo tinh thần Phật
giáo, “khoảng cách về không gian và thời
gian không làm ngăn ngại các mối quan hệ. Giáo lý luân hồi của các tôn giáo Ấn
Độ, đặc biệt là Phật giáo, dạy chúng ta hiểu rằng, trên thực tế, chúng ta không
chỉ có quan hệ với con người mà còn với tất cả chúng sanh” (Tachibana,
tr. 228).
Một
sự thật rằng, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi nói lời cảm ơn ai đó, hoặc đón
nhận lời cảm ơn từ người khác. Chúng ta sẽ phấn chấn khi có ai đó nói rằng,
chính mình làm cho họ thay đổi theo hướng tích cực và họ biết ơn về điều này.
Chúng ta cũng xúc động không kém khi mình đang gặp việc rắc rối, có người tự
nguyện tạm gác lại việc của họ để lăn xả vào cuộc giúp mình mà không tính toán
so đo. Cảm giác phấn chấn ấy có mặt vì chúng ta thấy việc mình làm đem lại lợi
ích thiết thực cho người khác. Cảm giác xúc động ấy là biểu hiện lòng biết ơn của
chúng ta dành cho người trải lòng chia sẻ trong lúc mình cần nhất. Trong cả
hai trường hợp, biết ơn và được biết ơn đều đem đến cho chúng ta niềm vui, tâm
lý an ổn và có cảm xúc cân bằng hơn. Khi chúng ta nhận được lợi ích từ công sức
và thiện chí của người khác dành cho mình, tâm niệm biết ơn có mặt, và khi ấy, chúng
ta trở nên tử tế hơn, vì hiểu rằng, không lúc này thì lúc khác, không cách này
thì cách khác, chúng ta đã, đang hoặc sẽ mang ơn mọi người. Ý niệm này giúp
chúng ta sống tử tế hơn với tất cả mọi người.
Biết
ơn giúp chúng ta tận tụy hơn trong công việc
Tấm
gương sinh động nhất về sự tận tụy trong công việc là đức Phật. Sau khi thành đạo,
việc đầu tiên của đức Phật là thể hiện lòng biết ơn đối với cây bồ-đề đã che
mưa chắn nắng cho Ngài trong suốt thời gian Ngài tu tập cho đến khi chứng nghiệm
đạo quả giác ngộ. Nhiều sử liệu kể lại rằng, sau khi hưởng pháp lạc giải thoát,
Ngài dành một tuần để đứng trước cây bồ-đề, nhìn về gốc cây với ánh mắt tri ân.
Ngài thể hiện lòng biết ơn giáo pháp Ngài vừa tìm được một cách thiết thực nhất
là tìm phương pháp để chuyển tải pháp giải thoát đến số đông dân chúng vốn nhiều
tầng lớp với đủ các trình độ khác nhau. Khi đã tận tâm tận lực tìm được phương
pháp truyền đạt hiệu quả, Ngài bắt đầu cuộc hành trình hoằng truyền giáo pháp,
một hành trình đền ơn không có điểm dừng!
Đối
tượng đầu tiên Ngài nghĩ đến để trao gởi thông điệp giải thoát là hai vị thầy
tâm linh đầu tiên Ngài đã theo học trên con đường tìm cầu chân lý, đó là Alara
Kalama và Uddaka Ramaputta. Mặc dù Ngài không chứng đạt giác ngộ khi theo học
giáo lý từ hai vị này, nhưng họ là những vị ân nhân trợ duyên không nhỏ trên lộ
trình tâm linh của Ngài. Sau khi quán chiếu và biết cả hai vị đều đã mất, Ngài
liền nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước đó. Đây cũng là những
người Ngài từng chịu ơn bởi lẽ nhờ họ mà Ngài biết đến các hình thức khổ hạnh để
Ngài tự chiêm nghiệm trong lúc hành trì. Cho dùđây chưa phải là con đường rốt
ráo đưa đến giác ngộ giải thoát, nhưng những trải nghiệm này là động cơ giúp
Ngài toàn tâm toàn trí để tìm ra lối đi
riêng cho mình.
Một
thời gian sau, Ngài bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp trong tinh thần biết ơn đến những
đối tượng khác. Đó là Ngài trở về hoàng cung hóa độ người thân của mình cũng
trong tinh thần biết ơn. Ngài độ các vị vua đương thời cũng trong tinh thần báo đáp. Suốt một cuộc đời tận tâm tận lực
không mệt mỏi, Ngài thực hiện cuộc hành trình độ sinh trong tinh thần tri ân vô hạn. Thế nhưng, chúng ta quen nhìn đức
Phật là một bậc đại giác ngộ, đại từ bi, đại công đức mà mấy ai thấy Ngài là bậc
đại tri ân đáng cho chúng ta học hỏi trọn đời. Không chỉ thể hiện hành vi giáo
dục người khác qua hành động của chính mình, đức Phật còn thể hiện tinh thần
tri ân trong nhiều bài kinh. Trong kinh Điềm
lành tối thượng (Mangala sutta - Kinh số 4, Phẩm Nhỏ, Kinh Tập),
đức Phật dạy, biết ơn là một trong các điềm lành tối thượng để tiến bộ trên lộ
trình tâm linh.
Lòng biết
ơn lại được thể hiện rõ nét qua tấm gương của tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất), một trong các vị đệ tử lớn của của đức
Phật. Sau khi gặp tôn giả Assaji (Ác-bệ), tôn giả Sāriputta hiểu được lý nhân duyên và tỏ ngộ chân lý. Từ đó, tôn
giả Sāriputta cống hiến trọn vẹn
cuộc đời mình trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp để đền đáp ơn lành được gặp
chánh pháp. Tôn giả có trí tuệ siêu tuyệt và phương pháp giảng dạy giáo pháp của
tôn giả thật là đặc biệt. Tôn giả là một trong số ít các đệ tử của đức Phật có
thể thay đức Phật thuyết pháp cho đại chúng, giảng giải chi tiết, phân tích cụ
thể các vấn đề giáo pháp sau khi được đức Thế Tôn tuyên thuyết một cách vắn tắt
và các bài pháp thoại ấy đều được ghi lại trong một số kinh Nikāya (điển hình như Trung
bộ kinh số 5: Kinh không uế nhiễm; Trung bộ kinh số 144: Kinh giáo giới Chanda;
Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương X, kinh Sāriputta-Kotthika;
Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm IV, kinh số 5:Đất; Tăng chi bộ kinh, chương
III, phẩm III, kinh số 21: Chứng thực với thân; chương III, phẩm XIII, kinh số
128: Anuruddha;
chương III, phẩm XVI, kinh số 158: Thối đọa; chương IV, phẩm XVIII, kinh số
173: Phân tích). Tôn giả là cánh tay đắc lực của đức Phật trong quá
trình truyền bá chánh pháp. Tấm gương tri ân và báo ân của Ngài thật đáng để chúng
ta ngưỡng mộ và noi theo.
Như
vậy, biết ơn và dốc lòng tận tụy sống một cuộc đời đem lại lợi ích cho mọi người
để đền ơn là đặc tính tự nhiên của bậc trí, tựa như chúng ta hít thở khí trời. Người
trí thực hành lòng biết ơn và đền ơn trong tinh thần phục vụ như một bản năng,
một bổn phận. Với trí tuệ siêu phàm và tâm từ rộng lớn, người trí rõ biết và cảm
nhận được những lợi ích có được từ con người và cuộc sống xung quanh. Nếu không
cảm nhận được điều này từ bản chất, việc phát khởi tâm biết ơn là một điều
không phải dễ dàng, và càng khó hơn là thể hiện tâm biết ơn đó bằng sự tận tụyvà
hết lòng trong công việc.
Biết
ơn giúp chúng ta thực hành pháp bố thí tốt hơn
Chính
vì muốn nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn các thành phần xã hội trong cộng đồng để tiến
bộ và từng bước hoàn thiện nhân cách của mình, đức Phật dạy
các đệ tử của Ngài cần phải bố thí như là biểu hiện của lòng biết ơn. Mình biết
nhận từ người khác và có được lợi ích từ sự thọ lãnh này thì cần phải khởi tâm ban
tặng như một quy luật của cuộc sống. Ngài dạy “có hai loại bố thí, đó là bố thí tài vật và bố thí pháp. Trong hai loại bố thí
này, pháp thí tối thắng hơn” (Pháp cú, câu 354; Tăng chi bộ kinh, chương II,
phẩm XIII: Bố thí). Người đệ tử xuất gia của Ngài chuyên tâm học pháp
và hành pháp, thì sẽ có pháp làm món quà tối thượng để chia sẻ với mọi người.
Do đó, cả cuộc đời của người xuất gia là tận tụy, chuyên tâm tu học để thể hiện
lòng biết ơn và đền ơn đối với mọi người, mọi loài trong vòng duyên sinh kết nối
rộng lớn này qua cách thức cho đi và nhận lại.
Theo
truyền thống, đức Phật dạy, người xuất gia không trực tiếp làm một nghề nào như
người cư sĩ để nuôi sống bản thân (Kinh di giáo) mà sống tùy vào sự
phát tâm cúng dường của hàng cư sĩ tại gia để nuôi dưỡng tâm niệm tri ân thông
qua việc chuyên tâm bố thí món quà tâm linh đến hàng cư sĩ ngoại hộ. Trong khi
đó, người cư sĩ còn phải làm nhiều bổn phận ở đời, phải làm các nghề để kiếm kế
sinh nhai, nên chưa thể toàn tâm dành hết thời gian trong ngày để học pháp và
hành pháp. Họ mong được hiểu giáo pháp đức Phật được truyền đạt từ người xuất
gia và đáp lại, họ có điều kiện để cúng dường tài vật đến các bậc thầy tâm linh.
Những lời đức Phật dạy được ghi lại trong nhiều kinh rằng, người xuất gia là ruộng
phước tối thượng để người cư sĩ gieo trồng công đức (Tăng chi bộ kinh, tập 1, chương III,
phẩm 7, mục 70: Các lễ Uposatha; mục 75: Cần phải khích lệ; phẩm 10: Phẩm hạt
muối; mục 94: Con ngựa thuần thục; phẩm 14: Kẻ chiến sĩ, mục 131: Kẻ chiến sĩ).
Do đó, người xuất gia bố thí pháp, người cư sĩ tại gia cúng dường tài vật là việc
làm nhằm tạo cho đôi bên ý thức được cuộc sống do duyên nhau mà tồn tại trong
quan hệ cho-nhận trực tiếp giữa người xuất gia và tại gia, qua đó thể hiện và nuôi
dưỡng tâm niệm biết ơn. Mỗi người nương vào pháp bố thí này như một bài thực
hành căn bản để khởi niệm biết ơn dễ dàng hơn đến với những người không tham
gia vào vòng cho-nhận trực tiếp. Từ ý niệm biết ơn trong quan hệ cho-nhận, chúng
ta tự nhắc nhở mình - phải biết cho đi để xứng đáng với những gì mình đang nhận
lại từ cuộc đời này. Với tâm niệm biết ơn như vậy, mỗi người nên có trách nhiệm với nhau hơn, mở rộng khối
óc và đôi tay, sẵn sàng thực hành bố thí trong tinh thần “món vay món trả phải
đồng”.
Biết
ơn giúp chúng ta hài lòng với cuộc sống thực tại
Khi thấy mình là kẻ thọ ơn, chúng ta dễ dàng có
cảm giác hoan hỷ chấp nhận và có tâm lý hài lòng, bằng lòng với những gì mình
đang có hay vị trí mình đang là. Cảm giác này hoàn toàn chủ quan và mang tính
tương đối. Cùng trong một điều kiện sống, người hài lòng thì cảm nhận được hạnh
phúc, an lạc, nhưng người không hài lòng thì cảm nhận sự đau khổ, bất an. Cùng
trong một môi trường, không gian sống, khi này chúng ta hài lòng, lúc khác chúng
ta lại không vừa ý. Với vật chất thế gian, con người chỉ có được trạng thái hài
lòng tạm thời mà thôi. Tâm chao đảo, mất cân bằng do tham đắm và bám níu vào những
gì chúng ta ưa thích, từ chối và đẩy ra những gì chúng ta không ưa thích khiến chúng
ta khó có được sự hài lòng lâu bền. Chỉ khi nào biết trân quý những gì chúng ta
đang có, đang sử dụng với ý niệm biết ơn, biết đủ, chúng ta mới dừng tâm đòi
hỏi và tìm cầu để sống một cuộc đời trọn vẹn với thực tại.
Thường xuyên thực hành hạnh biết ơn sẽ giúp
chúng ta có cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ và an lành. Người không hài lòng với
những gì mình đang có thì không thể ý
thức được rằng mình đang thọ ơn người khác. Do vậy, thay vì khởi niệm biết ơn,
họ chỉ có thể khởi tâm phàn nàn. Biết ơn, đơn giản là có cảm giác mình là người
thọ lãnh và ghi nhận giá trị của những gì mình nhận được từ con người và cuộc
sống. Ý niệm biết ơn là mạch máu làm tươi nhuận con tim, nuôi dưỡng khối óc và tưới
tẩm tâm hồn chúng ta. Có rất nhiều cơ hội để chúng ta có thể khởi tâm cảm ơn
người khác. Với cảm nhận đầy đủ về những gì mình đang có và những gì mình đang
trải qua đủ để chúng ta khởi niệm biết ơn. Thân thể, vóc hình, trí tuệ, sắc
đẹp, sức khỏe, tài sản, tình cảm chúng ta sở hữu trong kiếp sống này đủ để nhắc
chúng ta khởi niệm cảm ơn những gì cuộc đời ban tặng. Từ trong ý niệm biết ơn,
chúng ta biết cách sử dụng những gì chúng ta đang có để đem lại lợi ích cho
mình, cho người, sống một cuộc đời đáng sống. Đây là cách thể hiện tinh thần
biết ơn và đền ơn một cách thiết thực nhất.
Chúng ta có thể làm cho cuộc sống trở nên phong
phú và giàu có với tâm niệm biết ơn. Bằng cách ghi nhận thân và tâm này vốn đã
được vay mượn từ cha mẹ thuở mới sinh ra, ghi nhận những gì chúng ta đã, đang và
tiếp tục thọ nhận từ người khác trong cuộc sống hằng ngày, ghi nhận giá trị ấy để
luôn nhắc nhở mình sống trong tinh thần biết ơn. Chúng ta có trọn quyền và có
đủ khả năng điều khiển ý tưởng của mình để đạt được hạnh phúc và bình an trong
cuộc sống trên nền tảng của tâm niệm biết ơn. An lạc hay đau khổ, thật ra phần
lớn đều do mình chọn lựa hơn là do hoàn cảnh hay từ những thứ bên ngoài đem lại,
và tinh thần tri ân và báo ân sẽ giúp ta trong việc này.
Khởi
niệm biết ơn không có nghĩa chúng ta phủ nhận - những buồn đau, thất vọng xảy
ra với mình như một phần trong cuộc sống. Biết ơn là nhận ra mình còn được nhiều
thứ từ cuộc đời này và hãy lấy những cái có được ấy làm toa thuốc trị bệnh đau
buồn. Một khi chúng ta phàn nàn, nghĩa là chúng ta cảm thấy thiếu thốn hay không
hài lòng với cuộc sống hiện tại thì chúng ta có thể khởi lên ý niệm biết ơn
chăng? Cứ quay lại nhìn mình, nhìn lại những gì mình đang có, đủ để chúng ta khởi
niệm cảm ơn, để tâm hồn bình an và cảm thấy hài lòng với cuộc sống còn nhiều điều
bất toàn này. Vấn đề là khi biết khởi tâm biết ơn, chúng ta có đủ khả năng vượt
trên những đau buồn như một cơ hội để trưởng thành. Người khôn ngoan biết lấy
nghịch cảnh làm cơ hội để học hỏi và tự thân biết cách vươn lên từ trong bĩ cực
nhằm hóa giải và thăng hoa nỗi đau thành niềm vui. Rác rưởi có thể sử dụng
thành dưỡng chất cho cây lá tươi xanh đâm chồi nảy lộc, cho hoa trái khoe hương
tỏa sắc giữa đất trời.
Khi
chúng ta chú ý đến điều gì, cái đó trở nên quan trọng và chiếm vị trí trung tâm
trong tất cả suy nghĩ, ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, bao nhiêu ý tưởng liên
quan đến từ khóa ấy cũng lần lượt xuất hiện. Ví như khi chúng ta gõ một từ khóa
nào đó vào hệ thống tìm kiếm trên mạng, như google chẳng hạn, thì lần lượt từng
trang một, bao nội dung liên quan đến từ khóa ấy đều xuất hiện, chúng ta dễ
dàng tìm tiếp và tìm tiếp nữa. Cũng như vậy, khi có một ‘từ khóa’ nào đó xuất
hiện trong ý tưởng, ví dụ đó là một điều chúng ta ước muốn. Thế là biết bao ý
tưởng đều từ đó phát sinh. Tương tự chim bay theo đàn, ý tưởng cuộn theo từng
mảng chứ không tồn tại riêng lẻ bao giờ. Một sự thật rằng, chúng ta không nhận
được những gì mình mong muốn, nên chúng ta không hài lòng với cuộc sống hiện
tại. Nếu mỗi ngày chúng ta dành 5 phút để ước muốn thì thời gian 1435 phút còn
lại (24 tiếng đồng hồ là 1440 phút) trong ngàychỉ để lo lắng, suy nghĩ, vậy liệu
những mong muốn của mình có thành tựu hay không? Ham muốn chỉ đến với người
không hài lòng thực tại và không biết cách khởi niệm biết ơn. Do đó, người
không biết ơn thì tâm luôn lăng xăng bận rộn mà không thể hướng thượng và hướng
thiện. Nếu chúng ta bình tâm quan sát bản thân mình với tất cả năng lực mình
đang có, những gì mình đang sở hữu thì chúng ta sẽ đi đúng hướng trong việc dự
đoán, chứ không phải mong cầu cho thỏa mãn lòng tham. Làm được thế này, tâm
chúng ta sẽ trú trong “ngưỡng an toàn” và không quá bận rộn vô ích với những điều
xa rời thực tế với tâm lý mệt mỏi, nhọc nhằn vì mong cầu mà không đạt được.
Thay vì lao tâm khổ trí vì những ý tưởng tiêu cực do lo lắng, sợ hãi tạo ra, ý
niệm biết ơn sẽ giúp chúng ta trở nên an ổn và thanh thản hơn trong cuộc sống.
Biết ơn giúp chúng ta bớt đi ý tưởng chấp ngã, mở
rộng tâm hồn
Một lợi ích nữa là khi
chúng ta biết khởi niệm biết ơn thì ý niệm chấp ngã của chúng ta vơi dần. Bằng
cách thực hành biết ơn, chúng ta ý thức rõ ràng rằng, chúng ta đơn giản chỉ là
một phần không thể tách rời của một bộ phận lớn hơn. Càng ý thức rõ ràng về mối
quan hệ duyên sinh giữa mình và thế giới lớn hơn bên ngoài, chúng ta càng trở
nên khiêm tốn hơn, thấy mình bé nhỏ lại và phụ thuộc nhiều vào thế giới chúng
ta đang sống. Bớt đi ý niệm chấp ngã không có nghĩa là chúng ta đánh mất mình
mà là biểu hiện về sự trưởng thành của nhận thức, là sự trưởng thành về khả
năng giữ tâm thăng bằng và an lạc nhờ vào tâm niệm biết ơn.
Sống trên đời này,
chúng ta không thể tồn tại, đó là chưa nói đến thành công, nếu không có cha mẹ,
thầy, bạn và nhiều người thân hay không thân khác nữa. Hẳn là ít nhất chúng ta
không thể không mang ơn những người này. Ý tưởng “những gì tôi có được ngày hôm
nay là do bản thân tôi, không ai giúp cả” chỉ phản ánh cái nhìn thiển cận của
người vô ơn và chấp ngã mà thôi. Chính tâm niệm biết ơn giúp chúng ta hạnh phúc trong vòng tay của người
thân như cha mẹ, thầy tổ, bạn bè. Đây là động cơ để mở lòng sống tốt với mọi
người và là cách hướng đến con đường thánh thiện trong mọi tình huống. Khi
bắt đầu cảm nhận được lợi ích và ý nghĩa với những gì mình trải nghiệm, chúng
ta dễ dàng thấy điều hay, lẽ đẹp nơi người khác. Biết ơn giúp cho chúng ta có
niềm tin nhiều hơn trong các mối quan hệ. Biết ơn giúp chúng ta cảm nhận được những gì
mình thọ nhận từ người khác để dễ dàng khởi niệm đền ơn. Lưu tâm đến cái tốt,
cái đẹp thì những tâm niệm và hành động tốt đẹp dễ dàng phát sinh và chúng ta
có thể nhân rộng những điều thiện lành trong cuộc sống và rộng dần ra từ nơi chúng
ta sinh sống.
Với tâm rộng
mở trong tinh thần biết ơn, chúng ta dễ tha thứ hơn, nhờ đó các vết đau tâm lý
dễ chữa lành hơn. Tha thứ là chìa khóa để chữa lành vết
thương tâm lý và cảm xúc, đồng thời, tha thứ chỉ có thể làm được khi khởi lên ý
niệm biết ơn. Trong đau buồn mà vẫn thấy mình “được” chứ không mất, chúng ta mới
có thể khởi niệm biết ơn và dễ dàng tha thứ. Tha thứ có thể thuần túy diễn ra từ
trong ý niệm thông qua trị liệu, thiền định, thực hành tâm từ bi và sẵn lòng cảm
thông đối với tất cả mọi người. Tha thứ cho chính mình hay người nào đó là chất
liệu nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành hơn và chữa lành vết thương lòng nhanh
hơn.
Biết
ơn giúp chúng ta vững vàng hơn trong cuộc sống
Trong
những tình huống khó khăn nhất, tâm chúng ta chùn xuống và các tâm lý tiêu cực đua
nhau xuất hiện trên bề mặt ý thức. Điều này làm cho nỗi đau trương phồng thêm
lên một cách không cần thiết. Trong những tình huống như vậy, nếu chúng ta bình
tâm nhìn lại để kịp nhận ra rằng, những gì chúng ta đang có, kể cả nỗi khổ niềm
đau vừa lưu dấu trong tâm, là món quà vô giá để chúng ta khởi tâm cảm ơn tất
cả. Sự mất mát để lại niềm đau, nhưng đáng giá hơn là bài học vô thường sinh
động mà cuộc đời ban tặng. Chúng ta hãy biết ơn điều này và với tâm lý biết ơn
như vậy, đau thương mất mát được chữa lành nhanh chóng.
Biểu
hiện lòng biết ơn đối với người khác có nghĩa là chúng ta đang dành cho người ấy
một sự ghi nhận và hỗ trợ tinh thần với ngụ ý rằng việc người ấy làm cho chúng ta
là có ý nghĩa. Điều này tạo cho người ấy tăng thêm niềm tin việc mình làm là
đúng, từ đó khởi tâm hoan hỷ, tinh thần phấn chấn hơn và sống bình an hơn.
Nếu
thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những thay đổi mới
mẻ trong ta và trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự đóng
góp của người khác vào sự thành công của bản thân mình một cách dễ dàng. Mỗi bước
tiến trên lộ trình tâm linh là mỗi cơ hội để chúng ta thể hiện tâm biết ơn của
mình. Biết ơn chính là động cơ, là nền tảng cho mỗi bước tiến trên con đường
hướng thiện của bản thân mỗi người. Với sự biến đổi không ngừng của môi trường
và cuộc sống, chúng ta phải luôn xem lại mình để thích ứng với hoàn cảnh hiện
tại. Mỗi lần thích nghi với môi trường hay hoàn cảnh mới, chúng ta có cơ hội cảm
ơn tất cả để chúng ta có thể vươn lên một nấc thang cao hơn, một trạng thái hài
lòng được thiết lập trong quá trình tu tập.
Ngay
cả trong hoàn cảnh không như ý, chúng ta cũng nên khởi tâm biết ơn vì nhờ có
khó khăn, thất bại chúng ta mới có dịp hiểu rõ khả năng thực tế và kỹ năng xoay
xở tình huống của bản thân, cũng như có dịp quan sát những tâm lý khởi lên và
dâng trào đến mức độ nào trong bối cảnh bất như ý đó. Đây là cơ sở quan trọng để
chúng ta định hướng, hạ quyết tâm để đứng vững và bước chắc trên con đường hướng
thượng nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.
Biết
ơn đem lại nhiều lợi ích từ cơ thể khỏe mạnh đến tâm lý ổn định, tinh thần sảng
khoái và làm tươi mát cuộc sống nội tâm cũng như trong các quan hệ giao tiếp
với người xung quanh. Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ có cái
nhìn thực tế, rõ ràng và chính xác hơn qua lăng kính duyên sinh về khả năng
thực tế của bản thân, về sự góp phần của con người, môi trường và những sắc màu
mình trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày. Qua lăng kính của biết ơn, mọi vật trở
nên trong sáng hơn, con người ngày càng trưởng thành hơn và cuộc sống mỗi ngày càng
thêm tươi đẹp hơn.
Tài liệu tham khảo
Emmons,
R A. & Shelton, C. M. (2002). Gratitude
and the science of positive psychology. In: Handbook of positive psychology. Snyder, C. R.; Lopez, Shane
J.; New York, NY, US: Oxford University Press. 459-471.
Pruyser,
P.W. (1976). The minister as
diagnostician: Personal problems in
pastoral perspective. Philadelphia, PA: Westminster Press.
Tachibana
(1992/1975). The ethics of Buddhism.
London: Curzon Press.
Thích
Minh Châu (dịch) (1996). Tăng chi bộ kinh.
TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
Thích
Minh Châu (dịch) (1997). Trung bộ kinh.
TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
Thích
Minh Châu (dịch) (1997). Tương ưng bộ
kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.