Nguyên tác: Thanissaro
Bhikkhu
Người dịch: Liên Trí
Lời người dịch:
Mối quan
hệ Thầy-trò giữa những người xuất gia trong đạo Phật là một mối
quan hệ thiêng liêng, bền chặt với thời gian. Trước khi chính thức
thiết lập mối quan hệ này, thường thì người phát tâm xuất gia có
thời gian “thử duyên” tại một nơi có một người thầy tâm linh mà mình
có ý định gắn bó đời mình với vị ấy để được học hỏi, được hướng
dẫn trong một môi trường thích hợp để trau sửa trên con đường mình
chọn. Đây là thời gian quan trọng để người mới phát tâm tập sống đời
xuất gia, đồng thời để người thầy có dịp quan sát người học trò để
quyết định nhận người này làm đệ tử hay không. Quan điểm xưa nay là
vậy. Thế mà trong bài viết này, thầy Thanissaro có một quan điểm mới
hơn, rằng bước đầu ấy không phải chỉ để thầy quan sát chọn đệ tử
mà người đệ tử cũng quan sát, đánh giá người thầy tương lai của
mình để quyết định có nên chọn vị ấy làm thầy hướng dẫn mình hay
không. Ý niệm này hoàn toàn đúng về phương diện lý, nhưng trên thực
tế lại là một điều hơi lạ đối với văn hóa tu viện ở Việt Nam. Thấy
thú vị, tôi dịch bài này chia sẻ với người có duyên.
Khi Đức Phật bảo Ananda rằng toàn bộ sự thực
hành phạm hạnh là ở chỗ có được một người thiện tri thức, Ngài
không nói về sự ấm áp và cảm giác an tâm về tình thương yêu của
người khác. Vấn đề là Ngài chỉ ra ba sự thật không thoải mái, về sự
mê mờ và tin tưởng, vốn đòi hỏi sự sáng suốt để thẩm định, đánh
giá.
Sự thật không thoải mái thứ nhất là bạn không thể thật sự tin tưởng vào chính mình có thể xuyên thấu sự vô minh để nhìn chính bản thân mình. Khi đang trong vô minh, ta thật sự không biết mình đang vô minh. Bạn cần một người bên ngoài mà ta thật sự tin tưởng để giúp ta chỉ ra điều này. Đây là lý do tại sao khi đức Phật khuyên những người Kalama để hiểu biết về chính mình, một trong những điều Ngài dạy họ, để biết rõ bản thân mình thế nào, hãy căn cứ vào cách người trí đánh giá về hành vi của mình. Khi Ngài chỉ dạy cho con trai Rahula, cách để quán sát những hành động của chính mình là hãy nhìn vào tấm gương. Ngài dạy Rahula rằng, nếu thấy hành động nào của mình gây tổn hại, hãy bộc bạch điều ấy với một người thiện tri thức đồng phạm hạnh. Với cách này, Rahula có thể học cách mở lòng với người khác, và cả với chính bản thân, về lỗi lầm đã gây tạo, đồng thời, đây là cách để học hỏi tích lũy tri thức từ bậc thiện tri thức để sửa đổi, mà không phải tự tạo điều gì mới mẻ trên con đường thực hành giáo pháp của mình.
Do vậy, nếu bạn thật sự muốn trở thành người thuần thục, khéo léo trong
suy nghĩ, lời nói và hành động, bạn cần một người thiện tri thức
đáng tin cậy để chỉ ra những điểm tối của chính bản thân mình. Bởi
vì những điểm đen tối nhất bao quanh những thói quen không tốt, vụng
về, và nhiệm vụ chính yếu của người thiện tri thức đáng tin cậy ấy
là chỉ ra những lỗi lầm cho ta. Chỉ khi nào chính ta thấy rõ lỗi
lầm, ta mới có thể sửa lỗi; chỉ khi nào sửa lỗi, thì ta mới có
được lợi ích thiết thực mà người thiện tri thức vì lòng thương yêu
mà thật lòng chỉ lỗi cho ta.
Người hiền trí chỉ lỗi và khiển trách, như chỉ chỗ chôn
vàng. Thân cận người như vậy, chỉ tốt hơn cho ta chứ không xấu. (Pháp cú, câu 76)
Khi quán xét lỗi lầm
của mình, một người thiện tri thức
giống như một người huấn luyện ngựa. Có lần, người huấn luyện ngựa
đến thăm đức Phật, đức Phật hỏi ông về cách dạy ngựa. Ông đáp rằng,
với một số con ngựa, ông dùng biện pháp ngọt ngào. Với một số con ngựa
khác, ông dùng biện pháp mạnh. Một số khác nữa thì phải cần tới cả hai
biện pháp trên. Nhưng nếu cả ba phương pháp đó đều không thành công thì ông sẽ
giết con ngựa ấy đi. Ông làm vậy là để đảm bảo uy tín xưa nay của
những người kế thừa làm nghề huấn luyện ngựa. Thế rồi ông hỏi đức
Phật dạy các đệ tử Ngài bằng phương pháp nào, đức Phật trả lời “cũng
theo cách tương tự như vậy”. Có những đệ tử chỉ cần nhắc nhở nhẹ
nhàng là đủ. Có những đệ tử phải dùng lời khiển trách mạnh. Ngoài ra cũng
còn có những vị phải dùng kết hợp cả hai biện pháp trên. Nhưng nếu cả ba
phương pháp đó đều không thành công, Ngài cũng sẽ giết người đệ tử ấy.
Người huấn luyện ngựa sửng sốt, cho đến khi nghe đức Phật giải thích
cho ông hiểu từ “giết”. Ngài sẽ không chịu trách nhiệm huấn
luyện người đệ tử ấy nữa, điều
này có nghĩa là cơ hội trưởng thành về đời sống tâm linh trong giáo
pháp của người đệ tử ấy đã chết đi.
Do đó, điều kiện đầu
tiên để giữ một người thiện tri thức là sẵn lòng đón nhận sự khiển
trách, ngọt ngào cũng như nghiêm khắc. Chính vì lý do này, đức Phật
khuyên các đệ tử của Ngài dạy pháp không vì mục đích tiền bạc, vì
một khi người ta đã bỏ tiền ra để trả, họ có quyền quyết định cần
phải dạy điều gì. Hiếm có người nào bỏ tiền ra để cần nghe những
lời khiển trách. Thế nhưng, ngay cả nếu người dạy pháp miễn phí đi
nữa, bạn gặp phải sự thật không thoải mái thứ hai mà
đức Phật nói đến: bạn không thể mở lòng mình ra để phán xét bất
cứ người nào. Sự phán xét của chúng ta có sức mạnh, và vì sức
mạnh ấy có thể đem lại lợi ích hoặc tác hại lâu dài, nên ta cần
phải rất thận trọng trong việc chọn một bậc thiện tri thức để thân
cận. Đừng để rơi vào thế kẹt giữa phán xét và không phán xét. Phán
xét là cân nhắc trong việc tự động đặt niềm tin vào cái mình thích
hay không thích, còn không phán xét là cứ nhắm mắt tin rằng, với tư
cách một người dạy pháp, vị thầy nào cũng đem lại lợi ích như nhau.
Thay vào đó, hãy sáng suốt, thận trọng trong việc chọn một người để
ta đặt niềm tin, để rồi sự đánh giá, thẩm định của người ấy ta xem
như thể đó chính là sự đánh giá của bản thân mình.
Điều này dường như đưa
ta đến một tình huống khó xử tưởng chừng như mâu thuẫn. Bạn cần một
người thầy tốt để giúp bạn phát triển năng lực quán xét, nhưng chỉ
người nào có năng lực quán xét tốt mới có thể nhận ra ai là người
thầy tốt. Và ngay cả khi không có một cách nào tốt nhất để xử lý tình
huống này, thì bạn có thể chọn cách mà vẫn thường bị xem là ngu
xuẩn: nhất định bạn sẽ có cách nếu bạn sẵn lòng học hỏi từ kinh
nghiệm. Và may mắn là đức Phật đã khuyên ta về cách làm thế nào để
phát triển năng lực thẩm định, đánh giá, để chúng ta biết mình cần
tìm kiếm gì trên con đường đi của mình. Thật ra, những lời Phật dạy
về cách chọn một người thiện tri thức là sự thực hành sơ bộ về
nhận thức sâu sắc: học cách phát triển khả năng quán xét một cách
khôn ngoan để chính bản thân mình cũng có thể trở thành một người
thiện tri thức, trước tiên là cho chính mình, sau nữa là cho những
người xung quanh.
Bước đúng đắn đầu tiên là hiểu rõ phán
xét là gì theo hướng tích cực có lợi ích. Không phải phán xét theo
kiểu quan tòa đang ngồi trên ghế, nghe cáo trạng để phán xét là có
tội hay vô tội, mà nghe với tâm thái của một người thầy dạy đàn
piano đang lắng nghe bạn chơi đàn. Một người thiện tri thức không thông
qua phán quyết cuối cùng về tiềm năng của bạn với tư cách một người
chơi piano. Thay vào đó, người ấy đang đánh giá quá trình tiến bộ
của bạn: người ấy sẽ lắng nghe do động cơ nào để bạn hành động như
vậy, lắng nghe bạn thực hiện công việc như thế nào với sự thúc đẩy
của động cơ ấy, để rồi đi đến quyết định nên làm gì, làm như thế
nào để giúp bạn. Nếu có trục trặc gì, người ấy sẽ chỉ ra trục
trặc ở chỗ nào, từ trong động cơ hay ở giai đoạn thực hiện ý định
ấy, rồi đưa ra những lời khuyên hữu ích, để bạn thử áp dụng, xem có
hiệu quả hơn không. Người ấy cứ tiếp tục làm như vậy, lắng nghe, góp
ý, cho đến khi hài lòng với việc bạn làm mới thôi. Nguyên tắc quan
trọng ở đây là người thiện tri thức không bao giờ hướng đến phán xét
con người bạn, thay vào đó, người ấy sẽ chú trọng vào hành động
của bạn, luôn dõi mắt theo để tìm những giải pháp tốt hơn nhằm ngày
càng nâng cao tiêu chuẩn để công việc được hoàn thiện nhất trong khả
năng có thể của bạn.
Đồng thời, bạn cũng
đang học được từ người thiện tri thức cách đánh giá thẩm định công
việc mà mình đang thực hiện: suy nghĩ chín chắn hơn về động cơ của
mình, lắng nghe thận trọng hơn về quá trình thực hiện động cơ ấy,
nâng cao tiêu chuẩn hơn để hoàn thành công việc tốt nhất, và học cách
nghĩ thoáng hơn, rộng hơn để có sáng kiến mới và tìm các giải pháp
tốt nhất, chứ không chỉ quanh quẩn trong các lối mòn suy nghĩ có
tính định kiến. Điều quan trọng hơn cả, là bạn học được cách nhận
định, đánh giá công việc bạn làm, chứ không phải đánh giá chính bản
thân bạn. Với cách này, bạn không đặt nặng vào con người mà chú
trọng vào các thói quen của bạn, bạn sẵn lòng hơn để nhận ra những
thói quen không tốt để nỗ lực từ bỏ chúng và huân tập các thói quen
tốt thay thế.
Tất nhiên, khi bạn và
thầy của bạn đang đánh giá sự tiến bộ của bạn trên từng công việc
cụ thể, thì đó là một phần trên chặng đường dài thể hiện mối quan
hệ thầy trò đang tiến triển tốt đẹp. Người thầy phải thẩm định
đánh giá, cứ lặp đi lặp lại như vậy, nếu bạn có được lợi ích từ
sự hướng dẫn của thầy, thì bạn cứ tiếp tục theo sự hướng dẫn ấy.
Thế nhưng, không ai trong số các đệ tử có thể đánh giá được, liệu
có xứng đáng để thầy bạn làm việc đó hay không. Đơn giản là thầy
bạn biết tự quyết định, căn cứ trên sự tiến bộ của bạn, có đáng
để tiếp tục hướng dẫn bạn với tư cách một người thầy đối với đệ
tử hay không. Thầy bạn cũng nhìn xa
hơn khi xem xét những lời góp ý, nhắc khuyên của thầy có thật sự
giúp bạn để công việc trở nên hiệu quả hơn không. Nếu một trong hai người
quyết định dừng lại mối quan hệ thầy-trò,
điều này không có nghĩa thầy bạn là một người thầy tồi, hoặc bạn
là một người đệ tử tệ, mà đơn giản là người ấy không phải là
người thầy dành cho bạn, hoặc bạn không phải là người đệ tử dành
cho người thầy ấy mà thôi.
Tương tự theo cách như
vậy, khi đánh giá về một người bạn định chọn làm thầy tâm linh, nên
nhớ rằng không có phán quyết cuối cùng trong đạo Phật. Khi tìm cho
mình một vị thầy, bạn muốn tìm người ấy đánh giá bạn dựa trên những
hành động như là một phần trong quá trình trau sửa để tiến bộ, thì
bạn cũng phải có cách nhìn như vậy đối với người thầy của mình. Và
bạn đừng cố gắng lấy hình ảnh của một siêu nhân làm mẫu để đánh
giá một người nào đó chiếu theo những đặc tính mà bạn cho là cần
thiết phải có này. Đơn giản là bạn xem xét những hành động của vị
ấy có chứa đựng những kỹ năng mà bạn muốn huân tập và thuần thục
hay không, có chứa các phẩm hạnh đạo đức và hành động đủ để bạn
đặt trọn niềm tin với tư cách một người hướng dẫn, một người huấn
luyện bạn hay không. Sau cùng và trên hết, cách duy nhất để chúng ta
biết về người khác là thông qua hành động của người ấy để sự đánh
giá của mình mang tính khách quan nhất trong khả năng có thể. Đồng thời, bởi vì trong quá trình đánh
giá, ta muốn đưa người đó vào một tiêu chuẩn nhất định, thì cũng
công bằng thôi nếu ta căn cứ vào những gì họ đang thể hiện làm cơ sở
đánh giá. Ta làm điều này với mục đích tự bảo vệ mình. Và với
mục đích tự bảo vệ này, đức Phật khuyên chúng ta nên tìm kiếm hai
phẩm chất nơi một vị thầy: trí tuệ và sự chân thật. Để có thể thẩm
định hai phẩm chất này, cần có thời gian cùng với sự nhạy bén, do vậy
mà đức Phật khuyên rằng, để hiểu người nào đó, cần có thời gian dài
tiếp cận với người ấy càng nhiều càng tốt, và để ý quan sát kỹ lưỡng
cách người đó hành động như thế nào.
Có lần, khi vua
Pasenadi đến viếng thăm đức Phật, thì có một nhóm người tu theo đạo lõa
thể đi ngang. Nhà vua bước đến, quỳ gối, cung kính đảnh lễ họ. Sau
đó, vua đến đảnh lễ Phật và hỏi: “những vị lõa thể ấy có xứng
đáng để cung kính đảnh lễ hay không?” Đức Phật trả lời rằng, nhà vua
chỉ có thể có câu trả sau khi dành thời gian dài tiếp cận các vị
ấy, và để ý quan sát họ một cách cẩn thận. Nhà xua khâm phục với
sự cẩn trọng của đức Phật, thưa thêm rằng “Thật ra những người này
là do thám của nhà vua. Sau khi đi dò la tin tức của kẻ thù, hoàn
thành nhiệm vụ, họ đang trên đường trở về. Và lát nữa thôi, họ tắm
rửa và thay y phục, trở về hưởng thụ cuộc sống đời thường bên cạnh
vợ con”. Do vậy, bạn không thể đánh giá một người nào đó qua các
biểu hiện ấn tượng ban đầu. Biểu hiện của trí tuệ dễ dàng bị đánh
lừa. Ngày xưa, người ta ấn tượng với các hình thức tu cực kỳ khổ
hạnh; ngày nay, sự quảng bá rầm rộ của các sách Phật pháp và các
khóa tu với mục đích thu hút người khác trên bề nổi, tuy hình thức
xưa và nay có khác, tính chất của vấn đề là như nhau.
Tuy nhiên, để không
lãng phí thời gian và tránh những nỗi đau không đáng có trên con
đường tìm kiếm, Đức Phật nói đến bốn dấu hiệu ban đầu để nhận
biết những người không có trí tuệ và sự chân thật đủ để ta đặt
trọn niềm tin mà chọn làm thầy. Những dấu hiệu cho thấy sự không
đáng tin cậy về phương diện trí tuệ có hai. Dấu hiệu đầu tiên là
người ấy không có biểu hiện biết ơn khi nhận sự giúp đỡ từ người
khác, đặc biệt là khi nhận sự giúp đỡ từ cha mẹ hay thầy tổ. Người
vô ơn không bao giờ hiểu được giá trị của các điều thiện, họ không
biết giá trị của nỗ lực để trở thành một người có thể giúp người
khác và như vậy, những người này sẽ không bao giờ biết nỗ lực để
làm thiện, để trở thành người biết giúp đỡ người khác. Dấu hiệu
thứ hai của thiếu trí tuệ là không nắm vững giáo lý về nghiệp. Họ
phủ nhận việc chúng ta có tự do lựa chọn cho bản thân mình, hoặc họ
dạy rằng, một người có thể gánh thay nghiệp mà người khác đã tạo
trong quá khứ. Những người như thế không có gì đảm bảo rằng họ nỗ
lực một cách thành tâm trên con đường tu tập, do vậy, không thể đặt
trọn niềm tin vào sự hướng dẫn của họ.
Sự biểu hiện của thiếu
chân thật cũng có hai dấu hiệu. Thứ nhất, khi một người nào đó không
hề cảm thấy xấu hổ khi nói dối một cách có chủ ý và tính toán.
Có lần đức Phật dạy “người như thế thì không có ác nào mà họ không
dám làm”. Dấu hiệu thứ hai là khi họ không thảo luận các vấn đề
trong tinh thần khách quan, công tâm và thẳng thắn. Họ cố tình hiểu
sai ý của người đối nghịch, hồ đồ quy chụp người đối nghịch chỉ vì
những lỗi nhỏ nhặt không đáng, cố tình bỏ đi những chi tiết chính
đáng của người đối lập. Loại người này, đức Phật nói, không đáng
để ta nói chuyện, đừng nói đến chuyện chọn họ làm thầy hướng dẫn
con đường tu tập. Đối với những người không thể hiện những dấu hiệu
ban đầu này, đức Phật dạy chúng ta cách nhận định về trí tuệ và
chân thật qua hành động của họ trong một thời gian dài tiếp xúc.
Một vấn đề đức Phật
yêu cầu bạn tự hỏi mình là, có phải những hành động của người
thầy bị tham, sân và si làm động cơ chi phối mà người ấy ba hoa lòe
những kiến thức mà chính người ấy không hiểu rõ, hoặc bắt người
khác làm những điều mà những người này không hề thích thú. Để kiểm
chứng trí tuệ của người thầy, đức Phật khuyên chúng ta nên chú ý
cách người mà bạn có ý định chọn làm người hướng đạo ấy trả lời
về vấn đề thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, và nhìn vào
cách họ giải quyết vấn đề khi gặp nghịch cảnh chướng duyên. Để kiểm
chứng tính chân thật, hãy nhìn vào những phẩm hạnh của người ấy thể
hiện thông qua các công việc sinh hoạt hằng ngày, và mức độ chân thật
của người ấy trong tiếp xúc với người khác. Người ấy có biện hộ
cho việc phá giới, kéo người khác xuống cho bằng với hành vi thấp
kém của mình thay vì nỗ lực nâng mình lên cho cao bằng với họ không?
Người ấy có tranh thủ giành phần hơn về mình một cách không công
bằng hay không? Nếu có như vậy, tốt hơn bạn nên chọn cho mình một
người thầy khác.
Tuy nhiên, đây là nơi sự thật không thoải mái thứ
ba của đức Phật có mặt: bạn không thể đánh giá công tâm về sự
chân thật của người khác nếu bạn không phát triển phần nào đức tính
này. Đây có lẽ là sự thật không thoải mái nhất trong trong tất
cả, vì nó đòi hỏi chúng ta nhận trách nhiệm về sự đánh giá của
mình. Nếu bạn muốn thử nghiệm xem người nào đó liệu có khả năng
trở thành người thầy tốt hướng dẫn mình hay không, bạn phải tự mình
trải qua vài phép thử nghiệm. Nó cũng giống như nghe một người chơi
đàn piano. Nếu bạn càng điêu luyện với tư cách một người chơi piano,
bạn càng có khả năng thẩm định đánh giá khi nghe người khác chơi
piano.
May mắn quá, đức Phật
cũng cho chúng ta những hướng dẫn cần thiết để phát triển tính chân
thật, và điều này không nhất thiết đòi hỏi bạn phải có sự thuần
thiện bẩm sinh. Yêu cầu ở đây là xác định cho được sự chân thật và
trưởng thành; đó là nhận ra rằng chính hành động của mình tạo nên
tất cả những sự khác nhau trong cuộc sống, để bạn cần phải thận
trọng chọn cách hành động như thế nào, sẵn lòng chấp nhận lỗi lầm,
với bản thân mình và với người khác, và sẵn lòng học hỏi kinh
nghiệm từ lỗi lầm của mình để không lặp lại lỗi tương tự như vậy
nữa. Ta học được từ lời Đức Phật dạy Rahula, trước khi hành động về
thân, lời nói hay suy nghĩ, hãy nhìn kết quả sẽ tạo nên từ hành
động của mình. Nếu hành động ấy đưa đến hại mình, hại người thì
không làm. Nếu bạn không thấy có những nguy hại gì, thì hãy làm.
Trong khi hành động cũng tiếp tục xem xét, nếu bạn không gây hại thì
mới tiếp tục làm, nếu gây hại, dừng lại ngay, nếu không có hại gì,
tiếp tục làm cho đến khi hoàn thành. Khi hoàn thành xong việc, nhìn
xuyên suốt cả quá trình từ khi bắt tay làm đến khi có kết quả, nếu
nhận thấy có gây ra nguy hại nào, hãy bộc bạch điều này với một
người ta tin tưởng trên con đường tu tập phạm hạnh, khởi tâm xấu hổ
về lỗi lầm mình gây nên, quyết không lặp lại nữa. Nếu xét suốt một
quá trình ấy mà không gây ra lỗi lầm nào, hãy khởi tâm hoan hỷ và
tiếp tục trau luyện như vậy trong cuộc sống.
Khi rèn luyện mình
theo cách như vậy, bạn học được bốn
nguyên tắc căn bản về việc đánh
giá theo cách tích cực lành mạnh. Thứ
nhất, bạn đang đánh giá hành động của bạn, chứ không phải chính bản
thân bạn. Nếu bạn có thể học được cách tách ly cảm giác về bản
ngã ra khỏi hành động của mình, bạn có khuynh hướng dễ dàng nhận
lỗi với chính mình, và ít có thái độ phòng vệ khi người khác chỉ
giùm lỗi cho mình. Nguyên tắc này cũng áp dụng với tâm lý xấu hổ
mà đức Phật khuyên chúng ta nên có khi phạm lỗi lầm. Nguyên tắc này
không phải nhắm vào bạn, mà nhắm vào hành động của bạn. Người có
lòng tự trọng cao thì có cảm giác hổ thẹn, khi họ nhận ra đã làm
một việc thấp kém hơn giá trị vốn có của bản thân, họ không muốn
lặp lại điều này nữa. Tâm lý hổ
thẹn như vậy không phải là sự bạc nhược yếu đuối. Nó đơn giản là
giúp bạn ghi nhớ bài học mà ta đã học mà thôi.
Điều này liên quan đến
nguyên tắc quan trọng thứ hai về sự
đánh giá lành mạnh, đòi hỏi sự chánh niệm, đúng theo nghĩa gốc
của từ này: luôn giữ điều gì đó trong tâm. Loại chánh niệm như thế
cần thiết để phát triển khả năng đánh giá, vì nó giúp cho bạn nhớ
lại những bài học bạn đã học đi học lại và hiểu ra làm cái gì
thì tốt, làm cái gì là không tốt. Bởi vì chúng ta thường cố gắng
quên đi những lỗi lầm của mình, chúng ta phải trau luyện sự chánh
niệm của mình thường xuyên để nhớ những bài học ta đã học được từ
lỗi lầm của mình để không phải học đi học lại mãi những bài học
này.
Thỉnh thoảng chúng ta
nghe nói chánh niệm được định nghĩa là trạng thái không quán xét
của tâm, nhưng đó không phải là cách đức Phật hiểu về chánh niệm. Ngài
thường so sánh chánh niệm với người gác cổng trong ý nghĩa là với sự
hỗ trợ của chánh niệm, bạn thẩm định điều gì nên làm, điều gì
không nên làm.
Giống như trên vọng gác biên
giới quốc gia có một người canh giữ, người ấy thông mình, dày dạn
kinh nghiệm và có trí tuệ, chỉ cho
vào thành những người quen, còn người lạ thì chặn lại không cho vào
thành, nhằm bảo vệ người bên trong và đề phòng người bên ngoài. Tương
tự như vậy, một đệ tử của các bậc thánh phải luôn chánh niệm, thận
trọng, ghi nhớ trong tâm những việc đã làm, đã nói, kể cả những
việc đã làm đã nói từ lâu rồi. Với tâm chánh niệm như một người
canh gác cổng thành, đệ tử của các bậc thánh bỏ đi những pháp không
thiện, phát triển các pháp thiện, ngăn chặn những lỗi lầm, phát
triển không lỗi lầm, quán xét tự bản thân mình với sự thanh tịnh. (Tăng
chi bộ kinh, 7..63)
Như vậy, chánh niệm
thật sự đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển khả năng
thẩm định, đánh giá.
Khi bạn cố gắng áp
dụng những bài học đã được học, bạn khám phá ra nguyên tắc thứ ba về sự đánh giá lành mạnh: rằng những bài
học bạn học được từ sự sai lầm của chính mình, nếu bạn lưu tâm đến
chúng, rõ ràng chúng sẽ tạo nên một sự khác biệt. Giây phút
hiện tại không phải hoàn toàn mới mẻ không liên quan gì đến quá khứ
để có thể nói những bài học của ngày hôm qua không có lợi ích gì
cho ngày hôm nay. Chúng ta vẫn có thể tiếp tục tìm kiếm những điều
tinh tế mới mẻ để áp dụng những bài học có được từ trong quá khứ
nhưng nguyên tắc chung về nguyên nhân gây khổ đau và làm thế nào để
chấm dứt khổ đau thì luôn giống nhau.
Nguyên tắc thứ tư là bạn học từ
sự đánh giá của người khác để có những lợi ích. Khi bạn chọn một người tin cậy để giải
bày những lỗi lầm, bạn mở lòng để đón nhận những lời phê bình từ
người ấy, bạn cũng muốn áp dụng những gợi ý đề nghị của người ấy
để xem liệu có sự tiến bộ nào không. Khi đức Phật nói với di mẫu
Ngài, bà Gotami, rằng mỗi người có thể kiểm chứng sự thuần chân của
chánh pháp khi nhìn vào kết quả do sự hành trì đem lại. Nếu sự
hành trì ấy đem lại những phẩm chất cao quý như không tham ái, khiêm
cung, hài lòng, đầy nghị lực, nhẹ nhàng thanh thoát, đó là pháp chân
chánh. Người nào đem pháp này dạy cho bạn ít ra cũng đã được kiểm
chứng là một thiện tri thức chân chánh như vậy. Và như thế bạn đang
học ngày càng nhiều hơn cách để tự đánh giá thẩm định mình.
Một số người phản
đối cho rằng, nếu chú trọng việc tìm những bậc thiện tri thức đem
lại lợi ích cho mình là ích kỷ, và là một điều thiếu nhân bản nếu
cứ thường xuyên soi xét người khác xem liệu họ có đáp ứng những gì
mình cần hay không. Nói như vậy là hiểu chưa đúng lời Phật dạy. Những
lợi ích có được từ mối liên hệ với thiện tri thức không chỉ dừng
lại với bản thân bạn mà thôi; và trong quá trình kiểm chứng người
thiện tri thức ấy, bạn cũng đang kiểm chứng chính bản thân mình vậy.
Khi bạn huân tập những phẩm hạnh từ một thiện tri thức, bạn trở
thành người có thể được chọn làm thiện tri thức của những người
khác. Điều này cũng giống như tập luyện đàn piano với một người
thầy giỏi. Khi bạn trở thành một người chơi piano thuần thục rồi,
không chỉ bạn mà nhiều người khác đều có thể thưởng thức sự biểu
diễn của bạn. Bạn chơi càng hay, thì bạn đem lại nhiều niềm vui càng
nhiều hơn cho người khác. Càng hiểu quy trình chơi đàn bao nhiêu, bạn
dạy cho người khác càng hiệu quả bấy nhiêu, nếu người ấy thật lòng
muốn học từ bạn. Chính vì vậy, truyền thống giáo dục nhằm trao truyền
những phẩm hạnh đạo đức ưu việt được thiết lập nhằm đem lại lợi
ích cho cuộc đời.
Do vậy, khi tìm một
người thiện tri thức, ta đặt mình vào trong chuỗi dài nối liên tục
không dứt của các bậc thiện tri thức, kéo dài từ trong quá khứ nơi
đức Phật, và tiếp nối kéo dài đến tương lai. Tham gia vào trong giềng
mối này có thể đòi hỏi chúng ta chấp nhận các sự thật không hề
thoải mái, như cần mở lòng học hỏi từ những phê bình, góp ý và
sẵn lòng nhận lãnh trách nhiệm về hành động của chính mình. Nếu
vượt qua được thử thách, bạn học được năng lực thẩm định, đánh giá
rất con người, điều mà khi chưa huân tập, có thể dễ dàng gây nên nguy
hại, mà một khi đã được trau luyện, thi nó đem lại nhiều lợi ích
hơn.